
Năng lượng: Giá dầu tiếp tục giảm, khí LNG diễn biến trái chiều
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu giảm vào thứ Sáu (15/8) khi các nhà giao dịch kỳ vọng các lệnh trừng phạt áp đặt lên Nga liên quan đến Ukraine sẽ được nới lỏng.
Cụ thể, giá dầu thô Brent tương lai giảm 99 cent (-1,5%) về 65,85 USD/thùng và dầu thô Mỹ (WTI) giảm 1,16 USD (-1,8%) về 62,80 USD/thùng. Tính cả tuần, giá dầu WTI giảm 1,7% và dầu Brent giảm 1,1%.
Ông Trump đã đến Alaska vào thứ Sáu để tham dự hội nghị thượng đỉnh với ông Putin. Ông Trump nói rằng, ông tin tưởng Nga đã sẵn sàng chấm dứt chiến tranh. Putin cũng đã đến Anchorage.
Dữ liệu kinh tế của Trung Quốc yếu hơn dự kiến cũng làm dấy lên lo ngại về nhu cầu nhiên liệu. Dữ liệu của chính phủ Trung Quốc cho thấy tăng trưởng sản lượng nhà máy giảm xuống mức thấp nhất 8 tháng và tăng trưởng doanh số bán lẻ tăng với tốc độ chậm nhất kể từ tháng 12/2024, gây áp lực lên tâm lý thị trường bất chấp sản lượng dầu thô tăng mạnh tại quốc gia tiêu thụ dầu thô lớn thứ hai thế giới.
Sản lượng tại các nhà máy lọc dầu Trung Quốc tăng 8,9% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng 7/2025, nhưng giảm so với mức của tháng trước đó - vốn là mức cao nhất kể từ tháng 9/2023. Mặc dù tăng, xuất khẩu sản phẩm dầu của Trung Quốc trong tháng 7/2025 cũng tăng so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy nhu cầu nhiên liệu trong nước giảm.
Dự báo về tình trạng dư thừa thị trường dầu mỏ ngày càng tăng cũng ảnh hưởng đến tâm lý, trong bối cảnh lo ngại lãi suất của Mỹ sẽ cao trong thời gian lâu dài. Dữ liệu của Baker Hughes cho thấy số lượng giàn khoan dầu, một chỉ báo về nguồn cung tương lai, đã tăng thêm 1 giàn lên 412 giàn trong tuần qua.
Các nhà phân tích của Bank of America hôm thứ Năm (14/8) cho biết, họ đang xem xét nâng dự báo về tình trạng dư thừa thị trường dầu mỏ với lý do nguồn cung ngày càng tăng từ nhóm các nhà sản xuất OPEC+, bao gồm Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Nga và các đồng minh khác.
Các nhà phân tích hiện dự báo mức thặng dư trung bình là 890.000 thùng mỗi ngày từ tháng 7/2025 đến tháng 6/2026. Dự báo này được đưa ra sau dự đoán của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) trong tuần qua rằng, thị trường dầu mỏ có vẻ “bùng nổ” sau đợt tăng sản lượng mới nhất của OPEC+.
Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) giao ngay tại châu Á giảm trong tuần qua do nhu cầu yếu và lượng hàng tồn kho dồi dào.
Cụ thể, giá LNG trung bình giao tháng 9 cho thị trường Đông Bắc Á là 11,65 USD/mmBtu, giảm so với mức 11,90 USD/mmBtu tuần trước nữa. Hợp đồng giao tháng 10 ước tính ở mức 11,45 USD/mmBtu.
Giá LNG dự kiến sẽ tiếp tục giảm trong những ngày tới do lượng hàng tồn kho cao của Trung Quốc tiếp tục khiến nhu cầu giao ngay tại Đông Bắc Á giảm, cùng với nguồn cung ổn định ở Thái Bình Dương và nhiệt độ theo mùa góp phần làm tăng thêm tâm lý bi quan.
Còn tại Mỹ, giá LNG giao tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York (NYMEX) tăng 1,3 cent (+0,5%) lên 2,841 USD/mmBtu, do dự báo nhu cầu sẽ tăng cao hơn dự kiến trong 2 tuần tới và nhà máy Freeport tại Texas gần như hoạt động hết công suất sau đợt giảm ngắn hạn.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, các công ty năng lượng đã bổ sung 56 tỷ feet khối (bcf) khí đốt vào kho dự trữ trong tuần kết thúc vào ngày 8/8.
Các nhà phân tích lưu ý rằng việc tăng lượng dự trữ lớn, khiến lượng dự trữ tăng khoảng 7% so với mức trung bình 5 năm vào thời điểm này trong năm, một phần là do thời tiết mát mẻ hơn bình thường vào tuần trước. Trung tâm Bão Quốc gia Mỹ dự báo Bão nhiệt đới Erin sẽ mạnh lên thành bão lớn khi di chuyển về phía tây qua Đại Tây Dương hướng tới Bahamas trong tuần tới.
Tập đoàn Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã tăng lên 108,1 tỷ feet khối mỗi ngày trong tháng 8, tăng từ mức cao kỷ lục hàng tháng là 107,9 bcfd vào tháng 7.
LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ 111,9 bcfd trong tuần này xuống 111,5 bcfd vào tuần tới.
Kim loại: Giá vàng và đồng ổn định, quặng sắt giảm
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng ổn định trong phiên cuối tuần qua (15/8), song cả tuần vẫn giảm sau khi dữ liệu lạm phát cao đã làm giảm kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất.
Cụ thể, vàng giao ngay gần như không thay đổi ở mức 3.336,66 USD/ounce; vàng kỳ hạn tương lai cũng gần như đi ngang ở mức 3.382,6 USD/ounce.
USD giảm giá khiến các mặt hàng được định giá bằng đồng tiền này trở nên dễ tiếp cận hơn đối với người nắm giữ các loại tiền tệ khác. Bên cạnh đó, bất ổn địa chính trị và lãi suất thấp nhìn chung thúc đẩy nhu cầu vàng.
Các nhà phân tích tại ANZ cho biết, rủi ro kinh tế vĩ mô và địa chính trị sẽ gia tăng trong nửa cuối năm nay, làm tăng sức hấp dẫn của vàng như một kênh trú ẩn an toàn.
Về các kim loại quý khác: Bạc giao ngay giảm 0,1% về 37,96 USD/ounce trong phiên và giảm 1% trong tuần; bạch kim giảm 1,5% xuống 1.336,80 USD/ounce và palladium giảm 2,6% xuống 1.116,52 USD/ounce .
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng ổn định trong phiên 15/8 khi dữ liệu kinh tế ảm đạm từ Trung Quốc - nước tiêu thụ kim loại hàng đầu, được cân bằng bởi đồng USD yếu hơn và hy vọng dữ liệu này sẽ thúc đẩy Bắc Kinh đưa ra thêm các biện pháp kích thích.
Cụ thể, hợp đồng đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch Kim loại London (LME) tăng 0,2% lên 9.782 USD/tấn và giảm so với mức đỉnh 2 tuần đạt được trong phiên 12/8. Giá đồng SCFcv1 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 0,1% xuống 79.060 CNY (11.008,23 USD)/tấn. Giá đồng Mỹ kỳ hạn tương lai trên sàn Comex tăng 0,4% lên 4,50 USD/lb, nâng mức chênh lệch giá đồng Comex so với đồng LME lên 137 USD/tấn, tương đương 1,4%.
Dữ liệu từ SHFE hôm 15/8 cho thấy, tồn kho đồng đã tăng trở lại trong tuần qua, tăng 1/5 trong 2 tuần qua lên 86.361 tấn, mức cao nhất 2 tháng. Tuy nhiên, giá được hỗ trợ bởi hy vọng rằng, dữ liệu yếu sẽ gây áp lực buộc các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc phải đưa ra thêm các biện pháp kích thích để phục hồi nhu cầu trong nước.
Một yếu tố khác cũng hỗ trợ thị trường là đồng USD yếu đi khi một tuần đầy dữ liệu kết thúc, giữ nguyên khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9 tới. Sự suy yếu của USD khiến hàng hóa được định giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên rẻ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Về các kim loại khác trên sàn LME: Nhôm giảm 0,5% về 2.606 USD/tấn; kẽm giảm 1,9% về 2.794 USD/tấn và chì giảm 0,4% về 1.981 USD/tấn; trong khi niken tăng 1,1% lên 15.190 USD/tấn và thiếc tăng 0,7% lên 33.710 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tại Đại Liên, Trung Quốc giảm vào thứ Sáu (15/8), đánh dấu tuần giảm giá, do nhu cầu bất động sản yếu và hoạt động xây dựng ngoài trời thấp đã ảnh hưởng đến nhu cầu thép.
Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2026 trên Sàn giao dịch Hàng hóa Đại Liên (DCE) giảm 1,08% xuống 776 CNY (108,03 USD)/tấn và cả tuần giảm 0,96%. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 0,04% về 102,05 USD/tấn và giảm 0,05% trong tuần.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc đã giảm xuống mức thấp nhất 7 tháng vào tháng 7/2025, giảm 4% so với tháng trước đó và đánh dấu tháng giảm thứ hai liên tiếp. Sự sụt giảm này phản ánh những nỗ lực hạn chế tình trạng dư thừa công suất, trong khi nhiệt độ cao và lượng mưa lớn đã hạn chế hoạt động xây dựng ngoài trời.
Giá nhà mới của Trung Quốc đã giảm 0,3% so với tháng trước đó vào tháng 7, với nhu cầu vẫn ở mức thấp mặc dù nhiều chính quyền địa phương đã triển khai các ưu đãi cho việc mua nhà. Đầu tư bất động sản đã giảm 12% trong 7 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, mức giảm này đang thu hẹp dần ở các thành phố hạng nhất, hạng hai và hạng ba. Chính phủ Trung Quốc đã duy trì các lời kêu gọi ổn định thị trường trong những tháng gần đây, báo hiệu tiềm năng hỗ trợ chính sách hơn nữa.
Trong khi đó, các nhà phân tích của ANZ cho biết, sự sụt giảm sản lượng thép trong những tháng gần đây đã cải thiện lợi nhuận của ngành, đưa biên lợi nhuận lên mức dương và tạo điều kiện cho giá quặng sắt tăng tăng. ANZ cho biết, việc Bắc Kinh tập trung trở lại vào việc giảm công suất dư thừa có thể duy trì đà tăng, tiếp tục hỗ trợ giá quặng sắt.
Nông sản: Đậu tương bật mạnh, lúa mì và ngô hãm đà giảm
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) ghi nhận giá đậu tương bật mạnh sau 3 tuần giảm liên tiếp, trong khi lúa mì và ngô ghi nhận tuần giảm thứ 4 liên tiếp, song đà giảm không còn mạnh nhờ hoạt động mua bù và kỳ vọng mùa vụ.
Cụ thể, hợp đồng lúa mì đỏ mềm mùa Đông giao tháng 9 (WU25) tăng 3 xu lên 5,0605 USD/giạ, nhưng giảm 1,6% trong tuần, đánh dấu tuần giảm thứ tư liên tiếp, cũng là mức giảm thấp nhất trong tuần với hợp đồng lúa mì được giao dịch nhiều nhất (ZW1!) kể từ tháng 8/2020. Lúa mì đỏ cứng mùa Đông tháng 9 tại Kansas (KWU25) tăng 2,25 xu lên 5,0605 USD/giạ. Trong khi đó, lúa mì Xuân tháng 9 tại Minneapolis (MWEU25) giảm 2 xu về 5,70 USD/giạ.
Giá lúa mì kỳ hạn CBOT tăng chủ yếu nhờ lực mua bù trước kỳ nghỉ và sau chuỗi phiên giao dịch ở vùng giá thấp. Dù vậy, thị trường vẫn chịu sức ép từ nguồn cung toàn cầu dồi dào.
Thị trường ngô tăng trở lại vào phiên cuối tuần qua nhờ hoạt động mua bù và trước cuộc khảo sát mùa vụ Midwest của Pro Farmer diễn ra trong tuần này.
Cụ thể, hợp đồng ngô kỳ hạn tháng 12 (CZ25) - giao dịch sôi động nhất, tăng 8 xu lên 4,0525 USD/giạ và khép lại tuần với mức giảm nhẹ 0,25 xu. Giá ngô đã giảm 3 tuần liên tiếp trước đó.
Các quỹ hàng hóa vẫn trong xu hướng bán ròng, khiến thị trường dễ xuất hiện các đợt hồi phục ngắn hạn. Giá tăng vào phiên thứ Sáu đã gần như xóa hết mức giảm trong tuần, sau khi USDA đưa ra triển vọng sản lượng cao hơn dự kiến. Bên cạnh đó, mức giá thấp gần đây giúp nhu cầu xuất khẩu được cải thiện.
Giá đậu tương tăng phiên thứ 4 trong 5 phiên gần nhất, được hỗ trợ bởi hoạt động mua bù và trước thềm chuyến khảo sát mùa vụ Pro Farmer Midwest. USDA trong tuần đã hạ dự báo sản lượng, góp phần củng cố xu hướng tăng.
Tuy nhiên, đà tăng bị hạn chế bởi nhu cầu xuất khẩu chậm lại trong bối cảnh căng thẳng thương mại với Trung Quốc. Ngược lại, nhu cầu nội địa tích cực, đặc biệt sau báo cáo của Hiệp hội Chế biến hạt có dầu quốc gia về sản lượng nghiền kỷ lục trong tháng 7.
Cụ thể, hợp đồng đậu tương giao tháng 11 (SX25) tăng 14 xu lên10,4205 USD/giạ và tăng 5,6% trong tuần - mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 4/2025 đối với hợp đồng sôi động nhất (ZS1!). Giá bột đậu nành tháng 9 (SMU25) giảm 90 xu về 283,40 USD/tấn ngắn, trong khi dầu đậu nành tháng 9 (BOU25) tăng 1,19 cent lên53,18 cent/pound.
Nguyên liệu công nghiệp: Cà phê tăng mạnh tuần thứ 2 liên tục; cao su và dầu cọ cũng đi lên; đường, ca cao và bông giảm
Giá cà phê trên sàn ICE tuần qua tăng 2 chữ số, một phần nhờ lượng dự trữ thấp, thời tiết sương giá ở Brazil và tình hình thuế quan.
Cụ thể, giá cà phê tương lai Arabica tăng 15,15 cent (+4,6%) lên 3,4165 USD/lb trong phiên 15/8, sau khi chạm mức cao nhất trong 8 tuần là 3,4430 USD/lb. Tính cả tuần, giá Arabica tăng 10,4% - sau khi tăng 8,8% vào tuần trước nữa.
Giá cà phê Robusta tăng 2,9% lên 4.067 USD/tấn trong phiên 15/8, sau khi đạt mức cao nhất trong gần 2 tháng là 4.079 USD. Tính cả tuần, giá Robusta tăng tới 16% - sau khi tăng 8% vào tuần trước.
Các đại lý cho biết, thị trường cà phê được hỗ trợ một phần bởi sự sụt giảm của lượng tồn kho chứng nhận trên sàn giao dịch, giảm xuống mức thấp nhất trong 1 năm ở mức khoảng 720.000 bao, do các nhà rang xay tìm kiếm nguồn cung thay thế sau khi Mỹ áp thuế 50% đối với cà phê Brazil nhập khẩu. Brazil cung cấp khoảng 1/3 lượng cà phê nhập khẩu của Mỹ.
Giá ca cao kỳ hạn lùi về dưới 8.200 USD/tấn, sát mức thấp nhất trong hơn 1 tuần do dự báo mưa tại Tây Phi làm dịu lo ngại nguồn cung. Hoạt động phòng ngừa rủi ro và chốt lời của giới đầu cơ ngắn hạn cũng góp phần kéo giá xuống sau đợt tăng gần đây.
Thời gian qua, các vùng trồng tại Bờ Biển Ngà và Ghana thiếu mưa, dấy lên lo ngại về vụ chính 2025-2026 sau khi thu hoạch giữa vụ không đạt kỳ vọng. Để ứng phó, Bờ Biển Ngà đã cắt giảm 100.000 tấn hợp đồng xuất khẩu cho niên vụ 2025-2026. Trong khi đó, lượng tồn kho ca cao do sàn ICE giám sát tại cảng Mỹ giảm xuống 2.234.877 bao - thấp nhất trong 2 tháng.
Giá đường thô giảm 0,14 cent (-0,8%) xuống 16,44 cent/lb. Thị trường ít biến động trong tuần.
Sản lượng đường tại Trung Nam Brazil - khu vực trọng điểm, đã giảm 0,8% trong nửa cuối tháng 7/2025 so với cùng kỳ năm trước, đạt 3,61 triệu tấn, theo thông tin từ tập đoàn công nghiệp UNICA hôm thứ Sáu (15/8).
Các đại lý lưu ý rằng, hàm lượng đường trong mía tại Brazil đang giảm, điều này có thể khiến các nhà máy phải phân bổ một lượng mía rất lớn cho sản xuất đường để hoàn thành các hợp đồng xuất khẩu. Tỷ lệ mía được phân bổ cho đường đạt 54% trong nửa cuối tháng 7/2025.
Giá cao su kỳ hạn tương lai Nhật Bản tăng trong phiên giao dịch thứ Sáu (15/8), ghi nhận mức tăng trong tuần, được hỗ trợ bởi lo ngại về thời tiết tại quốc gia sản xuất hàng đầu Thái Lan.
Tuy nhiên, các khu vực sản xuất cao su chính ở Đông Nam Á đang dần bước vào mùa sản xuất cao điểm trong nửa cuối năm, phù hợp với xu hướng theo mùa điển hình, công ty môi giới Hexun Futures của Trung Quốc cho biết.
Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng 2,3 JPY (+0,73%) lên 319,5 JPY (2,17 USD)/kg và tăng 0,66% trong tuần. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn SICOM của Sở giao dịch chứng khoán Singapore tăng 1,7% lên 171 US cent/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 1/2025 trên sàn SHFE tăng 110 CNY (+0,7%) lên 15.905 CNY (2.214,13 USD)/tấn; hợp đồng cao su butadien giao tháng 9 giao dịch sôi động nhất SHBRv1 cũng trên sàn này tăng 40 CNY (+0,34%) lên 11.815 CNY/tấn.
Giá bông kỳ hạn duy trì quanh mức 66 xu/pound sau khi USDA điều chỉnh giảm cả sản lượng và tồn kho cuối kỳ. Cụ thể, tồn kho niên vụ 2025-2026 ước tính còn 3,6 triệu kiện trong tháng 7, giảm 1 triệu kiện so với báo cáo tháng trước đó; sản lượng dự kiến ở mức 13,2 triệu kiện.
Báo cáo mới nhất từ USDA cho thấy, xuất khẩu đạt 142.600 kiện, chủ yếu sang Việt Nam, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico và Bangladesh. Doanh số bán ròng bông vùng cao cũng đạt 242.000 RB cho niên vụ 2025-2026. Bên cạnh đó, việc giá dầu đi xuống - chất thay thế bông trở nên rẻ hơn, gia tăng sức ép lên giá bông.
Hợp đồng dầu cọ (FCPOc3) của Malaysia giảm khoảng 1% xuống dưới 4.250 MYR/tấn, chấm dứt chuỗi tăng 4 phiên liên tục trong tuần khi giới giao dịch chốt lời từ mức cao nhất kể từ tháng 4/2025. Giá còn chịu tác động từ dầu ăn yếu trên sàn DCE, đồng ringgit mạnh và triển vọng sản lượng tăng. Dù vậy, tính chung cả tuần, giá mặt hàng này vẫn tăng khoảng 3%, nhờ xuất khẩu mạnh với lượng giao hàng 10 ngày đầu tháng 8 tăng hơn 23%.
Trong tháng 7, sản lượng dầu cọ Malaysia tăng 7,1% lên 1,81 triệu tấn, tồn kho đạt 2,11 triệu tấn - mức cao nhất gần 2 năm. Malaysia cũng nâng giá tham chiếu dầu cọ thô tháng 9 và tăng thuế xuất khẩu lên 10%. Ở Ấn Độ, nhu cầu dự kiến tăng khi thương nhân tích trữ trước lễ Diwali.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
![]() |
(Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Thời báo Tài chính Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |