Các chính phủ đang nợ 91.000 tỷ USD: Vấn đề lo ngại của nền kinh tế toàn cầu

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Các chính phủ đang nợ 91.000 tỷ USD - một số tiền gần bằng quy mô của nền kinh tế toàn cầu và cuối cùng sẽ gây thiệt hại nặng nề cho người dân nói chung.
Các chính phủ đang nợ 91.000 tỷ USD: Vấn đề lo ngại của nền kinh tế toàn cầu

Gánh nặng nợ đã tăng lên quá lớn - một phần do chi phí của đại dịch - đến mức chúng đang là mối đe dọa ngày càng tăng đối với mức sống ngay cả ở các nền kinh tế giàu có, bao gồm cả Mỹ.

Tuy nhiên, trong một năm bầu cử trên khắp thế giới, các chính trị gia phần lớn đã phớt lờ vấn đề này. Một số trường hợp, họ còn đưa ra những lời hứa đẩy mạnh chi tiêu, mà ít nhất có thể làm tăng lạm phát trở lại và thậm chí có thể gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính mới.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) mới đây đã nhắc lại cảnh báo rằng “thâm hụt tài chính mãn tính” ở Mỹ phải được “giải quyết khẩn cấp”. Các nhà đầu tư từ lâu đã chia sẻ sự lo lắng đó về quỹ đạo dài hạn của nền tài chính của chính phủ Mỹ.

Roger Hallam, Trưởng bộ phận tỷ giá toàn cầu tại nhà quản lý tài sản Vanguard cho biết: “Thâm hụt tiếp tục và gánh nặng nợ gia tăng đang khiến điều đó trở thành mối lo ngại trong trung hạn”.

Khi gánh nặng nợ nần chồng chất trên khắp thế giới, các nhà đầu tư ngày càng lo lắng. Ở Pháp, bất ổn chính trị đã làm trầm trọng thêm mối lo ngại về nợ quốc gia, khiến lợi suất trái phiếu tăng vọt.

Nhưng ngay cả khi không có bóng ma của một cuộc khủng hoảng tài chính ngay lập tức, các nhà đầu tư vẫn đòi hỏi lợi suất cao hơn để mua trái phiếu của nhiều chính phủ khi sự thiếu hụt giữa chi tiêu và thuế ngày càng tăng.

Chi phí trả nợ cao hơn đồng nghĩa với việc có ít tiền hơn dành cho các dịch vụ công quan trọng hoặc để ứng phó với các cuộc khủng hoảng như khủng hoảng tài chính, đại dịch hoặc chiến tranh.

Vì lợi suất trái phiếu chính phủ được sử dụng để định giá các khoản nợ khác, chẳng hạn như các khoản thế chấp, lợi suất tăng cũng đồng nghĩa với việc chi phí đi vay của các hộ gia đình và doanh nghiệp cao hơn, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.

Khi lãi suất tăng, đầu tư tư nhân giảm và chính phủ ít có khả năng vay mượn để ứng phó với suy thoái kinh tế.

Karen Dynan, cựu nhà kinh tế trưởng tại Bộ Tài chính Mỹ và hiện là giáo sư tại Trường Harvard Kennedy cho biết, việc giải quyết vấn đề nợ của Mỹ sẽ đòi hỏi phải tăng thuế hoặc cắt giảm các phúc lợi, chẳng hạn như các chương trình an sinh xã hội và bảo hiểm y tế.

“Nhiều chính trị gia không sẵn lòng nói về những lựa chọn khó khăn sắp phải thực hiện. Đây là những quyết định rất nghiêm túc… và chúng có thể gây hậu quả rất lớn cho cuộc sống của mọi người”, bà cho biết.

Kenneth Rogoff, giáo sư kinh tế tại Đại học Harvard cũng đồng ý rằng Mỹ và các nước khác sẽ phải có những điều chỉnh đau đớn.

“Trong những năm 2010, rất nhiều học giả, nhà hoạch định chính sách và ngân hàng trung ương đã đưa ra quan điểm rằng lãi suất sẽ gần bằng 0 mãi mãi và sau đó họ bắt đầu nghĩ nợ là bữa trưa miễn phí… Điều đó luôn là sai lầm vì chúng ta có thể nghĩ nợ chính phủ giống như một khoản thế chấp có lãi suất linh hoạt và nếu lãi suất tăng mạnh, khoản thanh toán lãi sẽ tăng lên rất nhiều. Và đó chính xác là những gì đã xảy ra trên toàn thế giới”, ông cho biết.

Theo Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO) của Mỹ, vào năm tới, các khoản thanh toán lãi sẽ lên tới 1.000 tỷ USD đối với khoản nợ quốc gia trị giá hơn 30.000 tỷ USD, bản thân nó là một khoản tiền gần bằng quy mô nền kinh tế Mỹ.

CBO dự đoán nợ của Mỹ sẽ đạt 122% GDP chỉ sau 10 năm nữa. Và vào năm 2054, nợ được dự báo sẽ đạt 166% GDP và khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại.

Vậy nợ bao nhiêu là nhiều? Các nhà kinh tế không cho rằng, có một “mức độ xác định trước để những điều tồi tệ xảy ra trên thị trường”, nhưng hầu hết đều cho rằng nếu nợ chạm mức 150% hoặc 180% GDP, điều đó có nghĩa là “những chi phí rất nghiêm trọng đối với nền kinh tế và xã hội nói chung”, nhà kinh tế Karen Dynan cho biết.

Bước vào thị trường trái phiếu đáng sợ

Vấn đề của việc trì hoãn nỗ lực kiềm chế nợ có thể khiến các chính phủ dễ bị tổn thương trước những kỷ luật đau đớn hơn nhiều của thị trường tài chính. Anh đã đưa ra ví dụ gần đây nhất đối với một nền kinh tế lớn. Cựu Thủ tướng Liz Truss đã gây ra sự sụp đổ của đồng bảng Anh vào năm 2022 khi bà cố gắng ép buộc thông qua các đợt cắt giảm thuế lớn được tài trợ bằng cách tăng cường vay nợ.

Và mối đe dọa vẫn chưa biến mất. Nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính ở Pháp đã trở thành mối lo ngại nghiêm trọng hầu như chỉ sau một đêm sau khi Tổng thống Emmanuel Macron kêu gọi tổ chức bầu cử sớm vào tháng trước.

Các nhà đầu tư lo ngại cử tri sẽ bầu ra một quốc hội gồm những người theo chủ nghĩa dân túy có xu hướng chi tiêu nhiều hơn và cắt giảm thuế, làm trầm trọng thêm khoản nợ và thâm hụt ngân sách vốn đã cao của đất nước.

Lợi suất trái phiếu chính phủ Pháp tiếp tục tăng lên, đạt mức cao nhất trong 8 tháng vào thứ Ba (2/7).

Nhà kinh tế Karen Dynan cho biết, thị trường tài chính có thể nhanh chóng trở nên lo lắng bởi “sự rối loạn chức năng chính trị” khiến các nhà đầu tư nghi ngờ khả năng của chính phủ trong việc giải quyết các khoản nợ của mình.

Mặt khác, S&P Global đã đưa ra cảnh báo mới vào hôm thứ Ba (2/7) rằng Mỹ, Pháp và các nền kinh tế lớn khó có thể ngăn chặn sự gia tăng mức nợ trong vài năm tới.

“Chúng tôi ước tính rằng - đối với Mỹ, Ý và Pháp - cán cân cơ bản sẽ phải cải thiện tích lũy hơn 2% GDP để nợ ổn định; điều này khó có thể xảy ra trong ba năm tới…Theo quan điểm của chúng tôi, chỉ có sự suy giảm mạnh về điều kiện vay mới có thể thuyết phục các chính phủ G7 thực hiện củng cố ngân sách kiên quyết hơn ở giai đoạn hiện tại trong chu kỳ bầu cử của họ”, S&P cho biết trong báo cáo.

Hạc Hiên
Theo báo chí nước ngoài

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục