
Sáng 29/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
Trong đó, nội dung cho phép ngân hàng "thu giữ tài sản đảm bảo" để xử lý nợ xấu, quy định tại dự thảo Luật, nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội.
Cần thiết, nhưng tránh lạm quyền
Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung (đoàn Vĩnh Phúc) cho rằng, việc xử lý tài sản đảm bảo không chỉ là câu chuyện giữa tổ chức tín dụng và người vay, mà còn liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người gửi tiền. Hiện tiền gửi của dân cư lên tới khoảng 7,3 triệu tỷ đồng, đây là nguồn lực chủ yếu để tổ chức tín dụng cấp vốn cho nền kinh tế. Nếu nợ xấu không được giải quyết, tổ chức tín dụng sẽ khó hoàn trả đúng hạn cho người gửi tiền, từ đó ảnh hưởng đến an ninh tài chính - tiền tệ và trật tự xã hội.
Do đó, đại biểu cho rằng việc luật hóa các quy định về thu giữ tài sản bảo đảm là cần thiết, kế thừa từ thực tiễn Nghị quyết 42, đồng thời dự thảo đã bổ sung trình tự thủ tục rõ ràng, có giám sát, tránh lạm dụng.
Về vấn đề này, đại biểu Trần Anh Tuấn (đoàn TP.HCM) đề nghị, để hạn chế tối đa các tình huống mất an ninh trật tự khi ngân hàng tiến hành thu giữ tài sản đảm bảo, cần bổ sung quy định cho phép ngân hàng chủ động phối hợp với chính quyền địa phương và công an cấp xã ngay từ đầu, nếu đánh giá được khả năng bên giữ tài sản không hợp tác.
“Không nên để đến khi tranh chấp xảy ra rồi thì chính quyền mới vào cuộc. Cần cơ chế chủ động từ đầu,” ông Tuấn nêu quan điểm.
![]() |
Đại biểu Trần Anh Tuấn (đoàn TP.HCM) |
Đồng quan điểm, đại biểu Huỳnh Thị Phúc (đoàn Bà Rịa - Vũng Tàu) cũng cho rằng, về quyền thu giữ tài sản bảo đảm tại Điều 198a, dự thảo đã luật hóa trình tự thực hiện tương đối đầy đủ, nhưng vẫn thiếu cơ chế cưỡng chế hành chính khi bên bảo đảm cố tình cản trở, không hợp tác. Việc bổ sung quy định này là cần thiết để rút ngắn thời gian xử lý, giảm chi phí và bảo đảm hiệu lực thi hành trên thực tế.
Trong khi đó, đại biểu Nguyễn Hải Nam (đoàn TP. Huế) lưu ý, theo Luật hiện hành, việc xử lý tranh chấp thường thông qua tòa án, đặc biệt khi tài sản có tính chất phức tạp như đa sở hữu hoặc là dự án bất động sản. Vì vậy, khi trao quyền thu giữ tài sản cho ngân hàng, cần bảo đảm yếu tố nhân văn, tránh ảnh hưởng đến những trường hợp khó khăn thực sự hoặc bị lạm quyền.
Ông Nam nhấn mạnh: “Việc thu giữ tài sản phải tuân thủ quy định Hiến pháp về quyền con người, đồng thời cần có cơ chế cụ thể hơn để giám sát và can thiệp kịp thời nếu phát sinh tình huống bất ổn”.
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông (đoàn Bình Thuận) cho rằng, quy định trong dự thảo Luật chưa làm rõ cơ chế bảo vệ quyền lợi của bên bảo đảm khi có khiếu nại hoặc tranh chấp phát sinh; chưa quy định rõ khả năng tạm hoãn hoặc hủy việc thu giữ trong trường hợp có dấu hiệu sai phạm hoặc đang tranh chấp quyền sở hữu.
![]() |
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông (đoàn Bình Thuận) |
Bên cạnh đó, khoản 5 Điều 198a quy định trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ, đại diện UBND cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm.
Ông Thông cho rằng, quy định này chưa phù hợp với Luật Tổ chức chính quyền địa phương, vì Luật này không giao trách nhiệm trên cho cấp xã và cán bộ cấp xã cũng không có thẩm quyền cưỡng chế dân sự.
Từ đó, đại biểu đề nghị chỉ nên cho phép thu giữ tài sản bảo đảm trong các trường hợp bên bảo đảm có thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng, tài sản không bị tranh chấp và đang trong diện hợp pháp thu giữ. Đồng thời, cần quy định cụ thể cơ chế giám sát, quyền khiếu nại của bên bảo đảm.
Giải trình vấn đề này sau phiên thảo luận, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng khẳng định, xử lý tài sản đảm bảo hiệu quả sẽ giúp tổ chức tín dụng thu hồi vốn, có điều kiện tái cấp vốn cho khách hàng khác, từ đó góp phần giảm lãi suất cho vay và thúc đẩy tăng trưởng.
Thống đốc cho biết, dự thảo Luật đã bổ sung đầy đủ quy trình, điều kiện thu giữ và yêu cầu tổ chức tín dụng xây dựng quy trình nội bộ rõ ràng để bảo đảm công khai, minh bạch và đúng pháp luật, tránh lạm dụng quyền lực trong thu giữ tài sản.
Bổ sung cơ chế giám sát cho vay đặc biệt lãi suất 0%
Dự thảo Luật quy định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định cho tổ chức tín dụng vay đặc biệt với lãi suất 0%/năm (sửa đổi khoản 1 Điều 193 Luật hiện hành), các đại biểu đánh giá, đây là một chính sách hỗ trợ mạnh mẽ, thể hiện rõ vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc hỗ trợ các tổ chức tín dụng đang trong tình trạng đặc biệt khó khăn, nhằm giữ vững an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng.
Tuy nhiên, đại biểu Nguyễn Hữu Thông cho rằng, quy định mức lãi suất 0%/năm mà không gắn với điều kiện áp dụng cụ thể có thể dẫn tới lạm dụng chính sách, tạo ra rủi ro, làm sai lệch môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng và tăng áp lực lên ngân sách quốc gia.
Hơn nữa, nếu không có cơ chế kiểm soát, quy định này có khả năng mâu thuẫn với nguyên tắc thị trường, gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn lực nhà nước.
![]() |
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng |
Do đó, đại biểu đề nghị, cần quy định cụ thể trong dự thảo luật là: “Lãi suất 0% chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng thuộc diện kiểm soát đặc biệt, tái cơ cấu bắt buộc hoặc có ảnh hưởng hệ thống đến sự ổn định tài chính quốc gia”. Đồng thời, bổ sung cơ chế giám sát, công khai và đánh giá hiệu quả việc sử dụng nguồn vay đặc biệt này.
Về vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, theo Luật Các tổ chức tín dụng cũ trước khi sửa đổi năm 2024, việc cho vay đặc biệt được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước sẽ quy định có hay không có tài sản đảm bảo, có lãi suất hay không có lãi suất.
Khi sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng 2024, trong quá trình thảo luận và hoàn thiện dự thảo Luật, đưa thẩm quyền cho vay đặc biệt không có tài sản đảm bảo, lãi suất 0% lên Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên theo Thống đốc, trước thực tiễn biến động của hệ thống các tổ chức tín dụng trên thế giới cũng như Việt Nam, cần phải có cơ chế xử lý nhanh các vấn đề.
Thống đốc khẳng định việc cho vay đặc biệt không có tài sản đảm bảo, lãi suất 0% không phải là việc thường xuyên, liên tục mà chỉ áp dụng trong những trường hợp rất đặc biệt.
Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã thiết kế hàng loạt quy định để phát hiện từ sớm, từ xa tổ chức tín dụng nào có vấn đề để đưa vào tình trạng can thiệp sớm. Trong quá trình can thiệp sớm, nếu ngân hàng yếu thanh khoản thì sẽ được vay từ Ngân hàng Nhà nước có lãi suất.
Ngoài ra, việc cho vay đặc biệt cũng được áp dụng với tổ chức tín dụng đối mặt sự cố rút tiền hàng loạt, bởi việc rút tiền hàng loạt có thể lây lan toàn hệ thống.
Một trường hợp nữa khi tổ chức tín dụng bị kiểm soát đặc biệt thì mới cần cho vay. Khi xem xét cho vay đặc biệt bao giờ cũng yêu cầu các ngân hàng có tài sản đảm bảo trước. Khi nào khó khăn lắm, không còn tài sản đảm bảo thì lúc đấy mới cho vay đặc biệt.
Về tiêu chuẩn, điều kiện để vay đặc biệt, lãi suất 0%, không tài sản đảm bảo, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, không hẳn các ngân hàng thuộc diện kiểm soát đặc biệt mới cho vay mà còn phải căn cứ thực tế.