Năng lượng: Giá dầu diễn biến trái chiều
Giá dầu giảm vào thứ Sáu do bình luận từ các quan chức Ngân hàng Trung ương Mỹ cho thấy lãi suất sẽ duy trì ở cao trong thời gian dài hơn dự kiến có thể cản trở nhu cầu từ những thị trường tiêu dùng dầu thô lớn nhất thế giới.
Cụ thể, dầu thô Brent kỳ hạn tương lai kết thúc phiên giảm 1,09 USD (-1,3%) xuống 82,79 USD/thùng; dầu thô Tây Texas (WTI) giảm 1 USD (-1,3%) xuống 78,26 USD/thùng. Tính cả tuần, dầu Brent ghi nhận mức giảm 0,2%; nhưng dầu WTI tăng 0,2%.
USD mạnh lên sau bình luận của các quan chức Fed, khiến hàng hóa được định giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên đắt hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác. Lãi suất của Mỹ cao trong thời gian dài cũng có thể làm giảm nhu cầu dầu mỏ và nhiều mặt hàng khác.
Tuần này, dữ liệu lạm phát của Mỹ có thể ảnh hưởng đến quyết định của Fed về lãi suất.
Dầu nhận được ít sự hỗ trợ từ số lượng giàn khoan dầu của Mỹ - vốn là một chỉ số về nguồn cung tương lai, bất chấp dữ liệu của Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho thấy số lượng giàn khoan dầu giảm 3 giàn xuống 496 giàn trong tuần qua, mức thấp nhất kể từ tháng 11/2023.
Trong khi đó, các nhà quản lý tiền tệ đã cắt giảm vị thế mua ròng hợp đồng tương lai và quyền chọn dầu thô Mỹ trong tuần tính đến ngày 7/5/2024, Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai Mỹ cho biết.
Dữ liệu cho thấy, Trung Quốc đã nhập khẩu nhiều dầu hơn trong tháng 4/2024 so với cùng kỳ năm ngoái cũng giúp giữ giá dầu không giảm. Ngân hàng Trung ương châu Âu dường như ngày càng có nhiều khả năng bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 6 tới.
Kim loại: Giá vàng và đồng tăng, quặng sắt đi ngược thị trường
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng vào thứ Sáu (10/5) do dữ liệu việc làm của Mỹ yếu hơn dự kiến, củng cố kỳ vọng về việc Fed cắt giảm lãi suất.
Cụ thể, vàng giao ngay tăng 1% lên 2.369,49 USD/ounce. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 6/2024 tăng 1,5% lên 2.375 USD/ounce.
Hoạt động mua vàng tăng vọt chủ yếu là do yếu tố kỹ thuật, nhưng dữ liệu bảng lương tuần trước và dữ liệu thất nghiệp hỗ trợ giá vàng.
Thị trường tài chính kỳ vọng Ngân hàng Trung ương Mỹ sẽ bắt đầu nới lỏng lãi suất vào tháng 9/2024. Lãi suất tiền tệ thấp hơn thường có xu hướng làm tăng sức hấp dẫn của vàng thỏi, mặt hàng không mang lại lãi suất.
Về kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,9% lên 28,6 USD/ounce; bạch kim tăng 1,2% lên 989,95 USD/ounce và palađi tăng 1,4% lên 980,75 USD/ounce. Cả ba kim loại này đều tăng giá trong tuần.
Ở nhóm kim loại màu, đóng cửa phiên 10/5, hợp đồng đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME)tăng 1,4% lên 10.046 USD/tấn, trong khi hợp đồng đồng được giao dịch nhiều nhất tháng 6/2024 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 1,5% lên 80.970 CNY (tương đương 11.206,46 USD)/tấn.
Số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ trong tuần trước đã tăng lên mức cao nhất trong hơn 8 tháng, cung cấp thêm bằng chứng cho thấy thị trường lao động đang dần hạ nhiệt.
Việc cắt giảm lãi suất có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nhu cầu vật chất đối với kim loại, đồng thời cũng có thể dẫn đến USD yếu hơn, khiến kim loại được định giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Chỉ số USD-Index gần như không thay đổi sau khi giảm 0,3% trong phiên trước đó, mức giảm hàng ngày lớn nhất trong hơn một tuần.
Trên sàn LME, giá nhôm tăng 0,7% lên 2.579 USD/tấn; nikel gần như không đổi ở mức 19.040 USD/tấn; kẽm tăng 1% lên 2.939 USD/tấn; chì tăng 0,4% lên 2.241,50 USD/tấn và thiếc tăng 1% lên 32.900 USD/tấn.
Trên sàn SHFE, giá nhôm tăng 0,8% lên 20.725 CNY/tấn; nikel tăng 2,3% lên 144.760 CNY/tấn; thiếc tăng 3,3% lên 268.050 CNY/tấn và chì tăng 0,4% lên 18.070 CNY/tấn.
Trong khi đó, vào quý I/2024, nền kinh tế Anh tăng trưởng mạnh nhất trong gần 3 năm, chấm dứt cuộc suy thoái nhẹ trải qua vào nửa cuối năm 2023.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tương lai giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 2 tuần do lượng tồn kho lớn tại các cảng Trung Quốc và sự thận trọng về triển vọng nhu cầu, nhưng các biện pháp hỗ trợ tài sản ở Trung Quốc đã ngăn giá giảm mạnh.
Kết thúc phiên 10/5, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc giảm 1,6% xuống 857 CNY (118,62 USD)/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 24/4/2023.
Giá quặng sắt trên sàn DCE đã giảm 20% trong quý I/2024 - mức giảm lớn nhất kể từ quý III/2021. Tuy nhiên, giá đã phục hồi 16% từ đầu quý II/2024 đến nay.
Nông sản: Đồng loạt tăng giá
Giá ngô kỳ hạn tại Chicago tăng vào thứ Sáu (10/5) sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự kiến lượng dự trữ ngũ cốc của nước này thấp hơn kỳ vọng. Giá đậu tương tăng theo giá ngô do lo ngại về thiệt hại thời tiết đối với vụ mùa ở Brazil. Giá lúa mì kỳ hạn tăng lên mức cao nhất mới trong 9 tháng do các vùng trồng lúa mì ở Nga hứng chịu thêm sương giá.
Cụ thể, trên Sàn thương mại Chicago (CBOT), giá ngô kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 11-1/4 cent lên 4,67-3/4 USD/bushel, trong khi đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 9-1/4 cent lên 12,17-3/4 USD/bushel.
Lúa mì giao cùng thời điểm tăng 20-3/4 cent 6,58-1/4 USD/bushel vào cuối phiên, sau khi trong phiên leo lên 6,60-3/4 USD/bushel - mức cao nhất đối với hợp đồng hoạt động tích cực nhất kể từ ngày 8/8/2023.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá cà phê và đường giảm, đi ngược với cao su và ca cao
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn ICE giảm nhẹ xuống mức 19,58 US cent/lb. Giá đường trắng 1 kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn LME tăng 0,5% lên 575,6 USD/tấn.
Thời tiết khô và nóng ở Brazil có thể sẽ thúc đẩy sản lượng đường trong giai đoạn đầu vụ.
Theo hãng tư vấn Datagro, thị trường đường toàn cầu trong niên vụ 2024-2025 đang hướng tới thặng dư nhỏ 1,62 triệu tấn, sau khi thâm hụt 1,79 triệu tấn trong niên vụ 2023-2024 do sản xuất phục hồi ở Thái Lan.
Datagro dự báo, sản lượng đường niên vụ 2024/2025 của Thái Lan đạt 10,5 triệu tấn, tăng so với mức 8,77 triệu tấn trong niên vụ 2023-2024 do mở rộng diện tích trồng mía. Sản lượng đường của khu vực Trung Nam Brazil giảm 1,9% chỉ đạt 41,6 triệu tấn do thời tiết khô hạn hơn bình thường. Ấn Độ - nước sản xuất đường lớn thứ hai thế giới sau Brazil, dự kiến sản xuất 31,5 triệu tấn trong niên vụ 2024-2025, giảm 900.000 tấn so với niên vụ trước đó.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/204 vững ở mức 3.440 USD/tấn, tính chung cả tuần giảm 3%. Cà phê arabica cùng kỳ hạn gần như không thay đổi, ở mức 2,0115 USD/lb.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm nay đạt 737.797 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước, dữ liệu hải quan của Chính phủ cho biết.
Giá ca cao kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn New York tăng 196 USD (+2,3%) lên 8.891 USD/tấn. Hợp đồng này tăng 9% trong tuần.
Từ ngày 19/4/2024, giá ca cao đã giảm từ mức cao kỷ lục, nhưng tuần qua tìm được một số sự hỗ trợ.
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản giảm vào thứ Sáu do lo ngại về tình hình địa chính trị liên quan đến Trung Quốc - quốc gia tiêu thụ cao su chủ chốt. Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 10/2024 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) đóng cửa giảm 3,1 JPY (-1%) xuống 306,2 yên (1,97 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá tăng 1,16%, qua đó kết thúc 5 tuần giảm liên tiếp.
Hợp đồng cao su giao tháng 9/2024 trên SHFE giảm 55 CNY xuống mức 14.130 CNY (1.955,87 USD)/tấn.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |