Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 28/1-3/2: Giá dầu và khí lao dốc

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 28/1-3/2, xu hướng giảm giá tiếp tục được duy trì tại hầu hết các loại hàng hóa chính trên thế giới, trong đó giá dầu giảm gần 8%, khí giảm hơn 22%...
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 28/1-3/2: Giá dầu và khí lao dốc

Năng lượng: Giá dầu giảm gần 8%, khí giảm 22,5%, than tiếp tục chịu áp lực giảm

Trên thị trường dầu, giá dầu giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần sau số liệu việc làm của Mỹ tăng mạnh, làm dấy lên mối lo ngại lãi suất tăng cao và khi các nhà đầu tư tìm kiếm sự rõ ràng hơn về lệnh cấm vận của EU đối với các sản phẩm dầu tinh chế của Nga.

Cụ thể, kết thúc phiên 3/2, dầu thô Brent giảm 2,23 USD (-2,7%) xuống 79,94 USD/thùng, sau khi tăng lên mức cao 84,2 USD/thùng, trong phiên có lúc chạm 79,72 USD/thùng - thấp nhất kể từ ngày 11/1/2023. Dầu thô Tây Texas (WTI) giảm 2,49 USD (-3,3%) về 73,39 USD/thùng, trong phiên có lúc dao động trong khoảng 73,13-78 USD/thùng - thấp nhất kể từ ngày 5/1/2023.

Tính chung cả tuần, giá 2 loại dầu giảm gần 8%.

Tăng trưởng việc làm của Mỹ trong tháng 1/2023 tăng mạnh, trong bối cảnh thị trường lao động phục hồi, song tiền lương tăng khiêm tốn sẽ giúp Cục Dự trữ Liên bang Mỹ dễ dàng hơn trong việc chống lạm phát.

Trên thị trường khí, giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm 2xuống mức thấp nhất 25 tháng, do dự báo thời tiết mùa đông trong hơn 2 tuần tới ôn hòa hơn so với dự kiến trước đó và nhu cầu sưởi ấm giảm.

Cụ thể, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn New York giảm 4,6 US cent (-1,9%) xuống 2,41 USD/mmBTU - thấp nhất kể từ tháng 12/2020. Tính chung cả tuần, giá khí tự nhiên giảm 22,5% - tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 12/2022 (giảm 23%).

Trên thị trường than, giá than tiếp tục chịu áp lực do lượng than tồn kho cao tại các kho cảng ARA, cũng như giá khí đốt ở mức thấp trong một năm rưỡi qua.

Than nhiệt lượng 6.000 CV của Nam Phi tăng lên trên 145 USD/tấn do nhu cầu cao hơn từ Ấn Độ trên thị trường giao ngay. Báo giá 6.000 CV cao của Nam Phi tăng lên trên 145 USD/tấn do nhu cầu cao hơn từ Ấn Độ trên thị trường giao ngay.

Cảng Nam Phi Richards Bay Coal Terminal (RBCT) đã công bố kế hoạch tăng cường trung chuyển vào năm 2023 lên tới 60 triệu tấn (tăng 19% so với năm 2022). Xuất khẩu của Nam Phi đã giảm xuống còn 50,4 triệu tấn than trong năm 2022. Đồng thời, công suất thiết kế của RBCT là 91 triệu tấn/năm. Ấn Độ vẫn là điểm đến xuất khẩu chính từ nguồn cung RBCT, với khối lượng 15,5 triệu tấn. Các chuyến hàng đến Pakistan giảm xuống 3 triệu tấn. Lượng giao hàng đến châu Âu đã tăng 6 lần, đạt 14,3 triệu tấn, so với mức 2,3 triệu tấn vào năm 2021, trong khi xuất khẩu sang Ma-rốc tăng gần gấp đôi, từ 0,5 triệu tấn lên 1,2 triệu tấn.

Tại Trung Quốc, giá giao ngay 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo giảm xuống còn 175 USD/tấn do lượng dự trữ tại cảng cao, dự báo sản lượng trong nước tiếp tục tăng và nới lỏng các hạn chế đối với nhập khẩu than từ Úc.

Giá than 5.900 GAR tại Indonesia giảm xuống còn 140 USD/tấn, do hoạt động thương mại tiếp tục thấp từ khách hàng châu Á-Thái Bình Dương.

Giá than CV 6.000 tại Úc đã giảm xuống dưới mức 250 USD/tấn. Giá than của Úc giảm mạnh khi khách hàng tiếp cận chờ đợi trong bối cảnh nhu cầu thấp từ Ấn Độ và Trung Quốc. Áp lực còn do tồn kho cao ở Đông Nam Á và khả năng cạnh tranh của nguyên liệu Nam Phi và Nga được cung cấp với giá hấp dẫn hơn.

Chỉ số than luyện kim của Úc tăng vọt lên 350 USD/tấn do lo ngại nguồn cung giảm.

Kim loại: Giá vàng giảm 2,5%; đồng, nhôm, sắt, thép cũng giảm mạnh

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất hơn 3 tuần sau số liệu việc làm của Mỹ tăng mạnh hơn dự kiến, dấy lên mối lo ngại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể tiếp tục tăng lãi suất.

Cụ thể, vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 2,6% xuống 1.863,66 USD/ounce. Vàng kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn New York giảm 2,8% xuống 1.876,6 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá vàng giảm 2,5% - tuần giảm mạnh nhất kể từ đầu tháng 10/2022, khi giảm gần 100 USD/ounce trong 2 phiên giao dịch.

Tăng trưởng việc làm của Mỹ trong tháng 1/2023 tăng mạnh, với mức tăng 517.000 việc làm, gần gấp đôi so với tháng 12/2022. Tỷ lệ thất nghiệp chạm mức thấp nhất hơn 53,5 năm là 3,4% cho thấy thị trường lao động vẫn thắt chặt.

USD tăng 1,1% lên mức cao nhất 3 tuần, khiến vàng trở nên kém hấp dẫn. Đồng thời, tỷ suất lợi tức trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng tăng.

Đối với những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 4,9% xuống 22,33 USD/ounce; bạch kim giảm 4,7% xuống 973,17 USD/ounce; palladium giảm 1,6% xuống 1.628,43 USD/ounce. Cả 3 kim loại quý này đều giảm giá trong tuần.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá kẽm giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần, sau khi tồn trữ và USD tăng, nhu cầu kim loại tại Trung Quốc vẫn chậm lại, bất chấp nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt về Covid-19.

Cụ thể, giá kẽm giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 4,8% xuống 3.219 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 12/1/2023. Tuy nhiên, tính từ đầu năm đến nay, giá kẽm tăng 8%.

Giá kẽm giảm sau khi tăng trưởng việc làm của Mỹ trong tháng 1/2023 tăng mạnh và chỉ số đồng USD tăng. “Đồng bạc xanh” tăng khiến hàng hóa được định giá bằng đồng tiền này trở nên đắt hơn đối với khách hàng sử dụng tiền tệ khác.

Tồn trữ kẽm tại Thượng Hải tăng hơn gấp đôi lên mức 91.616 tấn kể từ ngày 20/1/2023.

Giá đồng trên sàn London giảm 1% xuống 9.039 USD/tấn - thấp nhất kể từ ngày 11/1/2023, bất chấp lo ngại về sự gián đoạn tại các khu vực sản xuất đồng chủ yếu là Mỹ La tinh và châu Phi có thể khiến nguồn cung thắt chặt.

Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 1,7% xuống 2.573 USD/tấn; niken giảm 4% xuống 28.600 USD/tấn; thiếc giảm 3,8% xuống 28.255 USD/tấn và chì giảm 1,3% xuống 2.106 USD/tấn.

Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm và có tuần giảm mạnh, khi các thương nhân đánh giá lại triển vọng nhu cầu tại nước sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc, sau khi các nhà quản lý thị trường cảnh báo chống đầu cơ giá quá mức.

Cụ thể, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên giảm 0,4% xuống 853,5 CNY (126,52 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp mới 2 tuần (834 CNY/tấn) trong đầu phiên giao dịch. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt giảm 1,2%.

Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn Singapore giảm 0,8% xuống 125,1 USD/tấn và ghi tuần giảm đầu tiên trong năm 2023.

Tồn trữ quặng sắt nhập khẩu tại 45 cảng lớn của Trung Quốc tăng lên 137,3 triệu tấn - cao nhất 4 tháng, tăng 5,2 triệu tấn (+4%) so với giai đoạn điều tra trước đó, số liệu điều tra giai đoạn 20-27/1/2023 của Công ty Mysteel cho biết.

Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,8%; thép cuộn cán nóng giảm 0,4%; thép cuộn giảm 1% và thép không gỉ giảm 0,7%.

Nông sản: Giá ngô tăng, đi ngược với đậu tương và lúa mì

Giá đậu tương tại Mỹ giảm do giá dầu thô giảm và dự kiến vụ thu hoạch đậu tương tại Brazil bội thu, song giá khô đậu tương tăng lên mức cao nhất 8,5 năm do nguồn cung thức ăn chăn nuôi thắt chặt.

Cụ thể, trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 2-1/4 US cent xuống 15,32 USD/bushel, trong khi giá khô đậu tương kỳ hạn tháng 3/2023 tăng 4,7 USD lên 496,5 USD/tấn, sau khi đạt mức 500,4 USD/tấn - cao nhất kể từ tháng 6/2014.

Giá lúa mì cũng giảm do hoạt động bán ra chốt lời, sau khi tăng lên mức cao nhất 1 tháng, trong khi giá ngô tăng.

Cụ thể, giá lúa mì kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 4-1/4 US cent xuống 7,56-3/4 USD/bushel, sau khi tăng lên mức 7,76-1/2 USD/bushel - cao nhất 1 tháng. Ngược lại, giá ngô cùng kỳ hạn tăng 2-1/4 US cent lên 6,77-1/2 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Biến động trái chiều

Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE giảm 0,42 US cent (-1,9%) xuống 21,24 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 6 năm (21,86 US cent/lb) trong phiên ngày 2/2/2023. Tính chung cả tuần, giá đường thô tăng 1,3%. Tuần trước nữa đã tăng 6,3%.

Tuy nhiên, giá đường trắng kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London lại giảm 15,5 USD (-2,7%) xuống 551,3 USD/tấn và cả tuần giảm 2%.

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE giảm 5,1 US cent (-2,9%) xuống 1,728 USD/lb, giảm từ mức cao nhất 3 tháng (1,842 USD/lb) trong phiên ngày 2/2/2023. Tuy nhiên, cả tuần vẫn tăng 1,7%.

Cà phê robusta cùng kỳ hạn trên sàn London cũng giảm 18 USD (-0,9%) xuống 2.031 USD/tấn trong phiên 3/2 và cả tuần giảm 1%.

Xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 12/2022 giảm 7,7% so với cùng tháng năm 2021 xuống 9,81 triệu bao (60 kg/bao), Tổ chức Cà phê quốc tế cho biết.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng, song có tuần giảm đầu tiên trong 5 tuần, khi các thương nhân đánh giá lại triển vọng nhu cầu tại nước mua hàng đầu Trung Quốc sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài 1 tuần.

Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Osaka tăng 0,7 JPY (+0,3%) lên 226,3 JPY (1,76 USD)/kg. Tuy nhiên, cả tuần lại giảm 4,6%.

Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 175 CNY xuống 12.685 CNY (1.881 USD)/tấn.

Giá cao su kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn Singapore giảm 0,8% xuống 140,6 US cent/kg.

Giá dầu cọ tại Malaysia tăng trong phiên 3/2 do đồng ringgit suy yếu và hoạt động mua vào kiếm lời, song vẫn có tuần giảm.

Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn Bursa Malaysia tăng 97 ringgit (+2,59%) lên 3.848 ringgit (904,14 USD)/tấn. Tính cả tuần, giá giảm 1,38%.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục