Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 25/6-2/7: Giá dầu giảm 4 quý liên tục

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 25/6-2/7 cũng là tuần cuối cùng của quý II/2023, thị trường hàng hóa ghi nhận giá dầu giảm quý thứ 4 liên tiếp. Một số mặt hàng cũng giảm trong quý như đồng, nhôm, sắt thép, cao su…
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 25/6-2/7: Giá dầu giảm 4 quý liên tục

Năng lượng: Giá dầu giảm 4 quý liên tục, khí tự nhiên cao nhất 17 tuần

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng trong tuần qua, song ghi nhận quý giảm thứ 4 liên tiếp do các nhà đầu tư lo ngại hoạt động kinh tế toàn cầu chậm lại có thể làm giảm nhu cầu nhiên liệu.

Cụ thể, chốt phiên giao dịch ngày 30/6/2023, dầu thô Brent kỳ hạn tháng 8/2023 tăng 56 US cent (+0,8%) lên 74,9 USD/thùng và cả tuần tăng 1,92%; dầu thô Tây Texas (WTI) tăng 78 US cent (+1,1%) lên 70,64 USD/thùng và cả tuần tăng 1,71%.

Tuy nhiên, tính chung trong quý II/2023, giá dầu Brent giảm 6% và là quý giảm thứ 4 liên tiếp, còn dầu WTI giảm 6,5% và là quý giảm thứ 2 liên tục.

Giá dầu chịu áp lực giảm từ việc tăng lãi suất tại các nền kinh tế lớn, cùng với hoạt động sản xuất và tiêu thụ của Trung Quốc hồi phục chậm hơn dự kiến. Dẫu vậy, các dấu hiệu hoạt động kinh tế của Mỹ tăng mạnh và tồn trữ dầu thô của nước này giảm trong tuần trước đã hỗ trợ giá.

Giá dầu cũng được hỗ trợ từ kế hoạch cắt giảm sản lượng của Ả Rập Xê-út thêm hơn 1 triệu thùng/ngày trong tháng 7 này, cùng với thỏa thuận của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và đồng mình (gọi tắt là OPEC+) nhằm hạn chế nguồn cung vào năm 2024.

Ngoài ra, thị trường còn được nâng đỡ bởi sự điều chỉnh tăng nhu cầu dầu thô và các sản phẩm tinh chế tại Mỹ. Nhu cầu dầu thô và sản phẩm dầu mỏ trong tháng 4/2023 giảm xuống 20,446 triệu thùng/ngày, song vẫn tăng mạnh theo mùa, Cơ quan Thông tin năng lượng Hoa Kỳ (EIA) cho biết.

Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 17 tuần do lượng khí đốt hàng ngày dẫn đến nhà máy xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) tăng, trong bối cảnh các dấu hiệu lạm phát tại Mỹ giảm và dự báo thời tiết đến giữa tháng 7/2023 nóng hơn bình thường, đặc biệt tại bang Texas.

Cụ thể, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York tăng 9,7 US cent (+3,6%) lên 2,798 USD/mmBTU - cao nhất kể từ ngày 3/3/2023 và cả tuần tăng 3% - là tuần tăng thứ 4 liên tiếp lần đầu tiên kể từ tháng 4/2022.

Tính chung cả tháng 6, giá khí tự nhiên tăng 23%, sau khi giảm 6% trong tháng 5/2023 và cả quý II tăng 26%, sau khi giảm kỷ lục 50% trong quý I/2023.

Kim loại: Trong tháng 6, giá vàng, đồng giảm mạnh, đi ngược với sắt thép

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng trong phiên cuối tuần qua 30/6, song vẫn giảm trong tuần cũng như cả tháng, qua đó ghi nhận quý giảm đầu tiên trong 3 quý gần nhất bởi kỳ vọng lãi suất của Mỹ sẽ tăng nhiều hơn.

Cụ thể, đóng cửa phiên 30/6, vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,5% lên 1.917,94 USD/ounce và vàng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York tăng 0,6% lên 1.929,4 USD/ounce.

Tuy nhiên, giá vàng vẫn giảm trong tuần và cả tháng (-21,8%). Tính chung cả quý, giá vàng giảm 2,5% từ mức đỉnh 2.072 USD/ounce trong tháng 5/2023 do lo ngại sức khỏe lĩnh vực ngân hàng Mỹ suy yếu.

Trong quý II/2023, chỉ số USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm đều tăng, khiến vàng kém hấp dẫn hơn khi các nhà đầu tư nắm giữ tiền tệ khác.

Về một số kim loại quý khác, giá bạch kim tăng 0,6% lên 899,27 USD/ounce, nhưng có tháng giảm mạnh nhất trong 2 năm qua. Giá palađi giảm 0,1% xuống 1.227,79 USD/ounce và có quý giảm thứ 3 liên tiếp.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá đồng tại London tăng, song có quý giảm 7,7% sau 2 quý tăng liên tiếp, do nhu cầu tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu Trung Quốc giảm và lo ngại về tăng trưởng kinh tế toàn cầu tiếp tục chậm lại.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 1,6% lên 8.306 USD/tấn, nhưng trong cả tuần giảm 1,5% và cả tháng 6 giảm 3%. Tính từ đầu năm đến nay, giá đồng giảm 0,8%.

Giá đồng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Thượng Hải cũng giảm 2,4% dựa trên cơ sở hàng quý. Tồn trữ đồng tại Thượng Hải tăng 13% lên 68.313 tấn.

Trong khi đó, tồn trữ đồng tại London giảm 2.450 tấn xuống 72.975 tấn.

Hoạt động tại các nhà máy đồng của Trung Quốc giảm tháng thứ 3 liên tiếp trong tháng 6 và sự yếu kém trong các lĩnh vực khác ngày càng trầm trọng làm gia tăng áp lực và buộc các nhà chức trách phải hành động nhiều hơn để thúc đẩy tăng trưởng.

Tương tự, giá nhôm trên sàn London giảm 0,5% xuống 2.149,5 USD/tấn và có quý giảm đầu tiên kể từ quý III/2022.

Về nhóm kim loại đen, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm, nhưng có tháng tăng mạnh nhất từ đầu năm 2023 đến nay, trong bối cảnh kỳ vọng Trung Quốc sẽ đưa ra nhiều biện pháp kích thích hơn để hỗ trợ phục hồi kinh tế sau dịch.

Cụ thể, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên giảm 0,7% xuống 822,5 CNY (113,35 USD)/tấn, song vẫn có tháng tăng mạnh nhất 7 tháng với mức tăng khoảng 17%.

Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Singapore giảm 1,3% xuống 109,7 USD/tấn. Tính chung cả tháng, giá quặng sắt tăng 14% - tháng tăng mạnh nhất từ đầu năm tới nay, nhưng vẫn giảm khoảng 10% trong quý II/2023.

Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây không thay đổi, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,3%; thép cuộn tăng 0,9% và thép không gỉ tăng 0,5%.

Hoạt động nhà máy tại nước sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc giảm tháng thứ 3 liên tiếp trong tháng 6/2023 và sự yếu kém trong các lĩnh vực khác ngày càng trầm trọng buộc Bắc Kinh phải hành động nhiều hơn để thúc đẩy tăng trưởng, trong bối cảnh nhu cầu suy giảm.

Giá quặng sắt 62% Fe giao ngay sang Trung Quốc tăng lên 116 USD/tấn do nhu cầu được cải thiện. Tính chung cả tháng giá thép giao ngay tăng 15%, công ty tư vấn SteelHome cho biết.

Nông sản: Giá đậu tương tăng, ngô và lúa mì giảm

Giá đậu tương tại Mỹ tăng 6% sau báo cáo diện tích trồng đậu tương tại Mỹ năm 2023 và tồn trữ của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) tính đến ngày 1/6/2023 thấp hơn so với dự kiến, trong khi giá ngô và lúa mì giảm do diện tích trồng trọt lớn hơn so với dự kiến.

Cụ thể, trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 tăng 77-1/2 US cent lên 13,43-1/4 USD/bushel.

Ngược lại, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 33-3/4 US cent xuống 4,94-3/4 USD/bushel và lúa mì kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 16-1/2 US cent xuống 6,51 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Cà phê và đường tiếp tục giảm giá trong tuần; cao su và dầu cọ tăng giá trong tháng 6, nhưng vẫn giảm trong quý II/2023

Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE tăng 0,82 US cent (+3,7%) lên 22,89 US cent/lb. Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London tăng 12,8 USD tương đương 2,1% lên 633,4 USD/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá đường trắng giảm 3,6%.

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE giảm 2,6 US cent (-1,6%) xuống 1,59 USD/lb trong phiên 30/6, sau khi chạm mức thấp nhất 5 tháng (1,5775 USD/lb) trong phiên trước đó. Tính chung cả tuần, giá arabica giảm 3,5%. Đồng thời, giá cà phê robusta cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 79 USD (-3,1%) xuống 2.491 USD/tấn và cả tuần giảm 7%.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng theo xu hướng tại Thượng Hải và đồng JPY suy yếu, qua đó ghi nhận tháng tăng thứ 5 liên tục, song vẫn giảm trong quý II/2023.

Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn Osaka tăng 0,7 JPY (+0,3%) lên 206 JPY (1,42 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá cao su không thay đổi và cả tháng tăng 1%, nhưng trong quý II/2023 vẫn giảm 1,9%.

Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 185 CNY lên 12.080 CNY (1.665,4 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore tăng 1,9% lên 132,9 US cent/kg.

Giá dầu cọ tại Malaysia tăng và có tháng tăng đầu tiên trong 4 tháng gần nhất, được hỗ trợ bởi thuế xuất khẩu của Indonesia tăng và đồng ringgit giảm, song mức tăng bị hạn chế bởi xuất khẩu giảm.

Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Bursa Malaysia tăng 28 ringgit (+0,75%) lên 3.783 ringgit (812,15 USD)/tấn. Tính chung cả tháng, giá dầu cọ tăng 18%, song tính từ đầu năm đến nay giảm gần 9,4%.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục