Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 22-29/11: Giá vàng bật tăng trở lại, dầu thô giảm tháng thứ 4 liên tiếp

(ĐTCK) Kết thúc tuần giao dịch từ 22-29/11, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến dầu thô giảm giá tháng thứ tư liên tiếp về quanh mức 62 USD/thùng , trong khi vàng bật mạnh trở lại lên trên mức 42.000 USD/ounce, một số mặt hàng khác cũng ghi nhận sự hối phục như ca cao, cà phê, ngô, đậu tương…

Năng lượng: Dầu thô giảm 4 tháng liên tiếp

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thô thế giới giảm nhẹ vào thứ Sáu (28/11), khi nhà đầu tư theo dõi diễn biến đàm phán hòa bình Nga - Ukraine và cuộc họp OPEC+ để tìm kiếm manh mối về những thay đổi sản lượng.

Cụ thể, dầu thô Brent kỳ hạn tháng 1/2026 giảm 14 cent (-0,22%) về 63,2 USD/thùng; hợp đồng dầu thô tháng 2/2026 giao dịch sôi động hơn, chốt phiên ở mức 62,38 USD/thùng, giảm 49 UScent so với phiên đóng cửa hôm thứ Năm.

Giá dầu thô Mỹ ở mức 58,55 USD/thùng, giảm 10 cent (-0,17%) so với phiên đóng cửa hôm thứ Tư. Không có giao dịch nào được thực hiện vào thứ Năm do kỳ nghỉ lễ Tạ ơn tại Mỹ.

Mặc dù tăng khoảng 1% trong tuần, song cả 2 loại dầu đều giảm tháng thứ tư liên tiếp, chuỗi giảm giá dài nhất kể từ năm 2023, do dự báo nguồn cung toàn cầu tăng gây áp lực lên giá.

Nhà phân tích Janiv Shah của Rystad cho biết, biên lợi nhuận mạnh mẽ của ngành lọc dầu đã hỗ trợ nhu cầu dầu thô ở một số nơi, nhưng tác động tiêu cực của dự báo thặng dư dầu ngày một rõ nét.

Dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) cho thấy, sản lượng dầu của Mỹ đã tăng lên mức cao kỷ lục trong tháng 9/2025, làm gia tăng lo ngại thị trường đang hướng tới tình trạng dư cung. Theo dữ liệu của EIA, sản lượng dầu thô của Mỹ đã tăng 44.000 thùng/ngày trong tháng 9, lên mức kỷ lục 13,84 triệu thùng/ngày.

Một cuộc khảo sát của Reuters với 35 nhà kinh tế và nhà phân tích cho thấy, những người được hỏi dự đoán giá dầu Brent sẽ đạt mức trung bình 62,23 USD/thùng vào năm 2026, giảm so với dự báo 63,15 USD/thùng của tháng 10. Dữ liệu của LSEG cho thấy, giá dầu này đã đạt mức trung bình 68,8 USD/thùng cho đến nay trong năm 2025.

Ả Rập Xê-út - quốc gia xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới, dự kiến sẽ hạ giá dầu thô giao tháng 1/2026 cho khách hàng châu Á trong tháng thứ hai xuống mức thấp nhất 5 năm dưới áp lực từ nguồn cung dồi dào và triển vọng dư thừa.

Kim loại: Giá vàng bật tăng, đồng cũng đi lên, quặng sắt và thép tiếp tục biến động trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, kết thúc phiên cuối tuần qua (28/11), giá vàng giao ngay tại Mỹ tăng 57 USD (+1,37%) lên 4.215,8 USD/ounce và tăng khoảng 150 USD so với cuối tuần trước nữa. Giá vàng tương lai giao tháng 2/2026 trên sàn Comex New York tăng 29,6 USD lên 4.231,9 USD/ounce.

Thị trường Mỹ đóng cửa vì lễ Tạ ơn trong ngày thứ Năm (27/11), khiến thanh khoản giảm mạnh trong tuầnvà biên độ dao động trở nên bất thường. Dù chịu tác động từ lập trường trung lập của Chủ tịch Fed Jerome Powell về khả năng giảm lãi suất, kỳ vọng thị trường đã quay lại khi công cụ FedWatch ghi nhận xác suất Fed cắt giảm lãi suất tháng 12 vượt 80%. Nhờ đó, vàng giữ vững vùng hỗ trợ trên 4.000 USD/ounce và đang thử thách ngưỡng kháng cự quanh 4.160 USD/ounce, yếu tố quyết định xu hướng tăng tiếp theo.

Triển vọng trung và dài hạn tiếp tục nghiêng về xu hướng tăng giá. Morgan Stanley dự báo vàng có thể đạt 4.500 USD/ounce vào giữa năm 2026, dựa trên 3 động lực chính: Dòng tiền ETF đảo chiều mạnh mẽ sau nhiều năm rút vốn; hoạt động mua ròng bền bỉ của các ngân hàng trung ương, cùng sự gia tăng nhu cầu nắm giữ tài sản an toàn trong bối cảnh rủi ro địa chính trị lan rộng và USD suy yếu. Trong quý III/2025, ETF vàng vật chất ghi nhận dòng vốn kỷ lục 26 tỷ USD, nâng tổng tài sản quản lý lên mức cao nhất lịch sử là tín hiệu cho thấy vàng vẫn là tài sản trú ẩn được ưu tiên hàng đầu.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng Thượng Hải (SHFE) tăng trong tuần qua, được hỗ trợ bởi dữ liệu kinh tế yếu kém của Mỹ, làm dấy lên kỳ vọng về việc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất trong tháng 12 này.

Cụ thể, hợp đồng đồng giao dịch nhiều nhất trên sàn SHFE tăng 0,41% lên 87.430 CNY/tấn (12.352,71 USD/tấn) trong phiên 28/11 và tăng 1,41% cả tuần.

Trên Sàn giao dịch kim loại London (LME), giá đồng kỳ hạn 3 tháng tăng 0,5% lên 10.994 USD/tấn và cả tuần tăng 2,01%. Tuy nhiên, hợp đồng LME đã gặp phải ngưỡng kháng cự ở mức 11.000 USD/tấn, cho thấy thiếu các yếu tố kích hoạt chính để phá vỡ ngưỡng này.

Doanh số bán lẻ yếu kém của Mỹ trong tháng 9 và niềm tin tiêu dùng trì trệ đã củng cố kỳ vọng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng tới. Đồng USD giảm giá trong tuần, dù phục hồi nhẹ trong phiên 28/11. “Đồng bạc xanh” suy yếu giúp hàng hóa rẻ hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ các loại tiền tệ khác, hỗ trợ giá kim loại.

Trong khi đó, động thái của Trung Quốc nhằm dừng kế hoạch mở rộng công suất luyện đồng 2 triệu tấn hiện được xem chủ yếu mang tính biểu tượng, theo các nhà phân tích và thương nhân. Nhiều năm tăng trưởng công suất không ngừng đã làm gia tăng cạnh tranh đối với quặng tinh khan hiếm, đẩy chi phí xử lý xuống mức âm kỷ lục.

Việc tạm dừng này diễn ra trong bối cảnh Bắc Kinh đang triển khai chiến dịch rộng rãi hơn nhằm hạn chế tình trạng dư thừa công suất công nghiệp, nhưng các nhà phân tích cho biết tác động thực tế của thị trường phụ thuộc vào việc liệu các biện pháp cứng rắn hơn, chẳng hạn cắt giảm bắt buộc hoặc giới hạn sản lượng có được thực hiện hay không.

Về các kim loại cơ bản khác trên sàn SHFE: Nhôm tăng 0,32%; chì tăng 1,09%; niken tăng 0,15%; thiếc tăng 1,53% và kẽm giảm về 0,22%.

Về các kim loại trên sàn LME: Nhôm tăng 0,58%; kẽm tăng 0,73%; chì tăng 0,18%; niken tăng 0,18% và thiếc tăng 1,81%.

Ở nhóm kim loại đen, kết thúc phiên 28/11, giá thép cây giao tháng 7/2026 tăng 30 CNY lên 3.165 CNY/tấn. Các mặt hàng thép khác cũng cho thấy xu hướng tích cực: Thép thanh tăng 0,71%, thép cuộn cán nóng tăng 0,27% và thép dây tăng 0,33%. Riêng thép không gỉ giảm nhẹ 0,32%.

Ở thị trường nguyên liệu, trên Sở Giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE), hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2026 giảm 0,19% xuống 794 CNY/tấn, nhưng cả tuần vẫn tăng 1,14%. Tương tự, tại Singapore, quặng sắt tháng 12/2025 (SZZFZ5) giảm 0,89% còn 105,75 USD/tấn, nhưng tăng 1,73% cả tuần.

Giá quặng sắt kỳ hạn tăng nhẹ do sự suy yếu của đồng USD. Chỉ số USD (DXY) đứng ở mức 99,431 điểm, sau khi giảm 0,28% trong phiên trước đó. Đồng USD yếu giúp hàng hóa định giá bằng đồng tiền này trở nên rẻ hơn đối với người mua nắm giữ đồng tiền khác.

Tuy nhiên, đà tăng bị hạn chế khi phí bảo hiểm quặng dạng cục (lump) tại Trung Quốc tiếp tục giảm sâu, phản ánh nhu cầu yếu của các nhà máy thép đang thua lỗ. Theo dữ liệu của Mysteel, phí bảo hiểm quặng sắt (dạng cục) nhập khẩu của Trung Quốc so với quặng 62% Fe đã giảm 42,2% so với 2 tháng trước, xuống mức thấp nhất kể từ cuối tháng 5/2024. Nguyên nhân chủ yếu là nhu cầu quặng cục giảm do nhiều nhà máy thép lò cao chịu lỗ, buộc họ chuyển sang sử dụng quặng cám chất lượng trung bình nhằm tiết giảm chi phí.

Một chuyên gia phân tích tại Thượng Hải cho hay từ tháng 9/2025, nhiều nhà máy thép Trung Quốc bắt đầu thua lỗ, dẫn tới xu hướng giảm dùng quặng cục và tăng sử dụng quặng fines trung bình để hạ giá thành sản xuất.

Ngoài ra, thị trường thép Trung Quốc tiếp tục chịu áp lực khi sản lượng thép thô cả năm được dự báo giảm xuống dưới 1 tỷ tấn - lần đầu tiên trong 6 năm, do cam kết cắt giảm sản lượng của chính phủ. Tại Ấn Độ, lượng thép thành phẩm nhập khẩu trong 7 tháng đầu năm tài khóa cũng giảm 34,1% so với cùng kỳ.

Bên cạnh đó, giá than luyện cốc và quặng sắt cũng giảm tốc mạnh hơn do nguồn cung than tăng và lượng tồn kho tại các mỏ tiếp tục dồn lại. Galaxy Futures dự báo, sản lượng gang thỏi tuần này sẽ còn giảm, gây thêm áp lực lên giá nguyên liệu đầu vào.

Nông sản: Ngô và đậu tương tăng giá, lúa mì đi ngược thị trường

Giá nông sản tuần qua ghi nhận giá lúa mì giảm nhẹ, còn ngô và đậu tương tăng nhờ nhu cầu xuất khẩu cải thiện sau kỳ nghỉ lễ.

Cụ thể, giá lúa mì tại sàn giao dịch Chicago (CBOT) điều chỉnh giảm trong phiên giao dịch thưa thớt cuối tuần qua (28/11) sau kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn tại Mỹ. Hợp đồng lúa mì mềm đỏ mùa Đông tháng 3 (WH26) giảm 2 xu xuống mức 5,3805 USD/giạ. Tại Kansas, hợp đồng lúa mì cúng đỏ mùa Đông tháng 3 (KWH26) giảm 2-1/2 cent xuống mức 5,2705 USD/giạ, còn lúa mì Xuân Minneapolis (MWEH26) đứng giá ở mức 5,7805 USD/giạ.

Theo Bộ Kinh tế Ukraine, tiến độ gieo trồng vụ Đông 2026 đạt 6,43 triệu ha, trong đó gần 4,7 triệu ha là lúa mì. Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) báo cáo doanh số xuất khẩu ròng đạt 341.300 tấn lúa mì trong tuần kết thúc ngày 16/10/2025.

Giá ngô tăng nhẹ nhờ lực mua xuất khẩu quay lại sau kỳ nghỉ. Trên sàn CBOT, hợp đồng ngô tháng 3 (CH26) tăng 2,05 cent lên 4,4775 USD/giạ.

USDA cho biết, doanh số bán ngô Mỹ đạt 2,8 triệu tấn cho niên vụ 2025-2026 và 571.500 tấn cho niên vụ 2026-2027 trong tuần kết thúc ngày 16/10/2025. Con số này vượt mức dự báo của giới phân tích (lần lượt là 1,4-2,5 triệu tấn và 0,5-1 triệu tấn). Ngoài ra, xuất khẩu ngô Mỹ còn ghi nhận thêm 273.988 tấn bán cho một điểm đến chưa công bố.

Giá đậu tương đi lên trong phiên cuối tuần nhờ lực mua từ Trung Quốc. Hợp đồng đậu tương tháng 1 (SF26) tăng 6,25 cent,lên 11,3775 USD/giạ. Trong nhóm sản phẩm chế biến, bột đậu nành tháng 1 (SMF26) giảm 1,7 USD xuống 318,7 USD/tấn ngắn, trong khi dầu đậu nành tháng 1 (BOF26) tăng 1,02 xu lên 52,05 xu/pound.

USDA ghi nhận doanh số xuất khẩu ròng đậu tương đạt 1.108.000 tấn trong tuần kết thúc ngày 16/10/2025, kèm theo thông tin Mỹ bán thêm 273.988 tấn cho Trung Quốc giao trong niên vụ 2025-2026.

Giới giao dịch đang theo dõi sát diễn biến nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc sau khi Washington và Bắc Kinh đạt thỏa thuận “đình chiến thương mại” cuối tháng 10/2025. Trước đó, Trung Quốc hạn chế mua hàng Mỹ và chuyển sang nguồn cung Nam Mỹ. Cùng lúc, Bộ Nông nghiệp Brazil cho biết, 5 doanh nghiệp xuất khẩu của nước này tạm thời bị phía Trung Quốc ngừng tiếp nhận hàng.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cà phê hồi phục nhẹ, ca cao bật mạnh, đường và cao su biến động trái chiều

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua 28/11, giá cà phê Robusta tiếp tục nhích lên trong bối cảnh vụ thu hoạch tại Việt Nam bị chậm tiến độ vì mưa lớn và tình trạng đất bão hòa nước.

Trên sàn ICE, hợp đồng cà phê Robusta (RC1!) tăng 26 USD (+0,6%) lên 4.565 USD/tấn và tăng 1% trong tuần, thấp hơn nhiều so với mức tăng 6,4% của tuần trước nữa. Ở New York, hợp đồng cà phê Arabica (KC2!) tăng 0,4% lên 3,812 USD/pound và đánh dấu mức tăng 3,2% trong tuần.

Các đại lý cho biết, mối lo về chất lượng vẫn hiện hữu khi bão Koto dù không đi thẳng vào vùng trồng trọng điểm nhưng dự báo mang theo lượng mưa lớn, có thể gây kéo dài thời gian thu hái.

Trong khi đó, giá ca cao bật tăng mạnh, nối dài nhịp phục hồi sau khi rơi xuống mức thấp nhất gần 2 năm. Thị trường cho rằng, phần lớn thông tin gây sức ép đã được phản ánh vào giá, trong khi tín hiệu kỹ thuật cho thấy trạng thái quá bán.

Trên sàn London, hợp đồng ca cao kỳ hạn (C2!) tăng 158 bảng (+4%) lên 4.069 bảng/tấn; trước đó, giá đã giảm về 3.650 bảng/tấn vào thứ Ba (25/11) - mức thấp nhất tính từ năm 2023. Tại New York, hợp đồng ca cao (CC2!) tăng 8,1% lên 5.504 USD/tấn, phục hồi sau phiên nghỉ lễ tại Mỹ.

Các đại lý cho biết, lực mua bù bán khống xuất hiện khi nhiều quỹ lo ngại rủi ro vị thế trong bối cảnh thị trường đang bị bán quá mức. Hoạt động giao dịch của nhóm ngành sô cô la vẫn chịu áp lực từ lượng hàng cập cảng gia tăng tại Bờ Biển Ngà và khả năng EU tiếp tục lùi thời điểm áp dụng quy định chống phá rừng.

Công ty nghiên cứu thị trường toàn cầu BMI (thuộc Fitch Solutions) đánh giá, giá ca cao nhiều khả năng duy trì ở vùng cao kèm biến động mạnh do rủi ro khí hậu và những bất ổn mang tính cấu trúc.

Thị trường đường duy trì xu hướng tăng nhẹ. Hợp đồng đường thô (SB1!) nhích tăng 0,07 cent (+0,5%) lên 15,21 cent/pound trong phiên 28/11 và tăng 2,9% trong tuần. Trong khi đó, hợp đồng đường trắng (SF1!) giảm nhẹ 0,2% về 435,5 USD/tấn trong phiên, nhưng vẫn tăng 2,7% trong tuần.

Theo ADM ISI, các tổ chức phân tích đã bắt đầu thu hẹp dự báo thặng dư đường toàn cầu niên vụ 2025-2026. Đơn vị này cũng lưu ý giá dầu - từng giảm về mức thấp nhất đầu tháng và chỉ còn bằng nửa mức đỉnh 12 năm của tháng 11/2023, có thể tạo nền cho chu kỳ hồi phục mới.

Kết thúc tuần qua, thị trường cao su châu Á ghi nhận diễn biến trái chiều giữa các sàn. Tại Thái Lan, giá cao su kỳ hạn tháng 12/2025 giữ nguyên ở mức 68,19 Baht/kg, cho thấy xu hướng đi ngang so với trước đó. Trong khi đó, trên sàn Osaka (OSE) của Nhật Bản, giá cao su kỳ hạn tháng 12/2025 tăng 0,5% lên 340 JPY/kg, trong khi hợp đồng cao su giao tháng 5/2026 tăng mạnh hơn với mức 1,75% lên 342,9 JPY/kg - đánh dấu tuần tăng thứ tư liên tiếp do lo ngại nguồn cung bị gián đoạn bởi lũ lụt tại Thái Lan - nước sản xuất cao su lớn nhất thế giới.

Tại Trung Quốc, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2026 trên sàn Thượng Hải (SHFE) tăng 1,25% 15.244 CNY/tấn, phản ánh nhu cầu ổn định và tâm lý thận trọng của thị trường trước biến động nguồn cung trong khu vực. Ngược lại, trên sàn SICOM của Singapore, hợp đồng cao su giao tháng 12/2025 giảm 1,7% xuống 175 cent Mỹ/kg, cho thấy sự điều chỉnh nhẹ sau các phiên tăng trước đó.

Tính chung cả tuần, giá cao su Thái Lan và Trung Quốc gần như đi ngang, trong khi Nhật Bản tăng khoảng 3%, tiếp tục duy trì đà phục hồi kéo dài 4 tuần. Diễn biến giá hiện nay chủ yếu chịu tác động bởi thời tiết cực đoan ở Thái Lan, khiến nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng tiếp tục đè nặng lên thị trường và giữ giá cao su ở mức tương đối cao.

(Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Thời báo Tài chính Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục