Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 2-9/7: Giá dầu, vàng, đồng, cà phê hồi phục, sắt thép, nông sản tiếp tục giảm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch tuần đầu tiên tháng 7/2023 (từ 2-9/7), thị trường hàng hóa ghi nhận sự hồi phục của giá dầu, vàng, đồng, đặc biệt là cà phê với mức tăng 5%, trong khi một số mặt hàng tiếp tục giảm giá như sắt thép, nông sản…
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 2-9/7: Giá dầu, vàng, đồng, cà phê hồi phục, sắt thép, nông sản tiếp tục giảm

Năng lượng: Giá dầu tăng trở lại, khí tự nhiên lùi về mức thấp nhất 2 tuần

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng lên mức cao nhất 9 tuần do lo ngại nguồn cung và hoạt động đẩy mạnh mua vào, làm lu mờ lo ngại lãi suất tăng cao hơn nữa có thể làm chậm quá trình tăng trưởng kinh tế và giảm nhu cầu dầu.

Cụ thể, đóng cửa phiên giao dịch ngày 7/7, dầu thô Brent tăng 1,95 USD (+2,6%) lên 78,47 USD/thùng; dầu thô Tây Texas (WTI) tăng 2,06 USD (+2,9%) lên 73,86 USD/thùng. Đây là mức cao nhất đối với dầu Brent kể từ ngày 1/5/2023 và dầu WTI kể từ ngày 24/5/2023. Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu đều tăng 5%.

Các nhà xuất khẩu dầu hàng đầu Ả Rập Xê-út và Nga đã công bố cắt giảm sản lượng mới trong tuần này, nâng tổng mức cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh (còn gọi là OPEC+) lên khoảng 5 triệu thùng/ngày (bpd), tương đương 5% nhu cầu dầu toàn cầu.

Các nhà phân tích thuộc Công ty Dịch vụ tài chính Morningstar cho biết: “Việc cắt giảm sản lượng của OPEC+ dự kiến sẽ thắt chặt thị trường, dẫn đến thiếu hụt nguồn cung trong nửa cuối năm 2023 và hỗ trợ giá dầu tăng cao”.

Ngoài ra, giá dầu còn được hỗ trợ bởi USD giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần, sau số liệu tăng trưởng việc làm của Mỹ thấp hơn dự kiến, nhưng vẫn đủ mạnh để có khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục tăng lãi suất vào cuối tháng 7 này. USD suy yếu khiến giá dầu trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác, điều này có thể thúc đẩy nhu cầu dầu.

Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần do các công ty khoan dầu đã rút một lượng khí đốt kỷ lục ra khỏi mặt đất và tồn trữ khí tự nhiên trong tuần trước cao hơn so với dự kiến.

Theo đó, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York giảm 2,7 US cent (-1%) xuống 2,582 USD/mmBTU - thấp nhất kể từ ngày 20/6/2023. Tính chung cả tuần, giá khí tự nhiên giảm 85% sau khi tăng 3% trong tuần trước đó và là tuần giảm đầu tiên trong 5 tuần qua.

Kim loại: Vàng, đồng tăng giá, đi ngược với sắt thép

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng và có tuần tăng đầu tiên trong 4 tuần do USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm sau số liệu bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ suy yếu, làm dấy lên mối hoài nghi về quỹ đạo tăng lãi suất vào tháng 7/2023.

Cụ thể, vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,8% lên 1.926,54 USD/ounce trong phiên 7/7 và tính chung cả tuần, giá vàng tăng 0,4%. Vàng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York tăng 0,9% lên 1.932,5 USD/ounce.

Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm từ mức cao nhất hơn 4 tháng, cùng với đó là USD giảm 0,9% xuống mức thấp nhất hơn 2 tuần, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với khách mua hàng nước ngoài.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá đồng tại London tăng sau khi giảm 3 phiên liên tiếp trước đó do USD giảm sau số liệu việc làm của Mỹ suy yếu và tồn trữ đồng tại London giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 4/2023.

Cụ thể, giá đồng trên sàn London tăng 1,2% lên 8.359,5 USD/tấn trong phiên giao dịch ngày 7/7 và cả tuần tăng 0,5% sau 2 tuần giảm liên tiếp. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, giá đồng giảm 12% kể từ mức đỉnh giữa tháng 1/2023.

Việc USD giảm khiến hàng hóa được định giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên hấp dẫn hơn đối với khách hàng nắm giữ tiền tệ khác. Chỉ số USD giảm sau số liệu cho thấy rằng, tăng trưởng việc làm của Mỹ trong tháng 6/2023 chậm hơn so với dự kiến, trong khi điều kiện thị trường lao động vẫn thắt chặt.

Ở các kim loại khác, giá nhôm giảm 1,2% xuống 2.141,5 USD/tấn; kẽm giảm 2% xuống 2.362 USD/tấn; chì giảm 1,3% xuống 2.066 USD/tấn và ngược lại, thiếc tăng 1%lên 27.605 USD/tấn và nikel tăng 3,5% lên 21.230 USD/tấn.

Về nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tại Đại Liên và Singapore có diễn biến giảm và dao động trong biên độ hẹp do các thương nhân đánh giá thấp triển vọng nhu cầu trong khi cân nhắc mức độ mở rộng của các biện pháp kích thích kinh tế dự kiến ở Trung Quốc.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 9/2023 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc đã kết thúc giao dịch ban ngày thấp hơn 1,9% lên mức 812,5 CNY (tương đương 112,16 USD)/tấn.

Trên Sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt chuẩn giao tháng 8/2023 của nguyên liệu sản xuất thép đã giảm 1,8% xuống 108,1 USD/tấn sau khi giao dịch hầu như không đổi vào đầu phiên.

Các thị trường mong đợi của Trung Quốc - nhà sản xuất thép và tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, sẽ công bố gói kích thích để hỗ trợ sự phục hồi kinh tế sau cuộc họp của văn phòng chính trị Đảng Cộng sản vào cuối tháng 7 này.

Các nhà phân tích cho biết đang chờ Bắc Kinh sẵn sàng “đi bao xa” để hỗ trợ lĩnh vực bất động sản trong nước đang gặp khó khăn.

Trong khi đó, nguồn cung quặng sắt tăng từ các nhà xuất khẩu hàng đầu Úc và Brazil cũng đang kìm hãm giá.

Giá các nguyên liệu đầu vào sản xuất thép khác cũng giảm, với giá than cốcthan luyện cốc giảm lần lượt 1,3% và 1,8%.

Điểm chuẩn thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải giảm mạnh với giá thép cây giảm 2,2%, giá thép cuộn giảm 2,4%, giá dây thép giảm 2,1% và giá thép không gỉ giảm 0,4%.

Nông sản: Đồng loạt giảm giá

Giá ngô, đậu tương và lúa mì tại Mỹ đều giảm do mưa ở khắp vành đai nông trại khu vực Trung Tây Mỹ có lợi cho cây trồng.

Cụ thể, trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 12 US cent về 4,94-1/2 USD/bushel và thay đổi nhẹ trong tuần qua sau khi chạm mức thấp nhất 2,5 năm vào giữa tuần.

Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 cũng giảm 21-3/4 US cent xuống 13,17-3/4 USD/bushel và cả tuần giảm 1,9%.

Giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 8-1/2 US cent về 6,49-1/2 USD/bushel. Tính chung cả tuần, giá lúa mì giảm 0,2%.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cà phê bật mạnh cùng đường, dầu cọ; cao su biến động trái chiều

Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn ICE tăng 0,28 US cent (+1,2%) lên 23,53 US cent/lb và cả tuần tăng 2,8% sau khi giảm 6,2% trong tuần trước đó. Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London tăng 8,8 USD (+1,3%) lên 666,1 USD/tấn và cả tuần tăng 5,16%.

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE tăng 0,45 US cent (+0,3%) lên 1,609 USD/lb. Đồng thời, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn London tăng 111 USD (+4,4%) lên 2.621 USD/tấn và cả tuần tăng 5%.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng, song có tuần duy trì ổn định, khi các thương nhân cân nhắc giữa kỳ vọng nhu cầu xe điện tăng so với đồng tiền châu Á giảm. Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn Osaka tăng 0,4 JPY (+0,2%) lên 206 JPY (1,44 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá cao su không thay đổi sau 2 tuần giảm liên tiếp.

Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 115 CNY lên 12.460 CNY (1.720,04 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Singapore giảm 0,3% về 131,9 US cent/kg.

Giá dầu cọ tại Malaysia giảm khi các thương nhân chờ đợi số liệu quan trọng của Hội đồng quản trị Dầu cọ, song thị trường vẫn có tuần tăng thứ 2 liên tiếp. Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Bursa Malaysia giảm 78 ringgit (-1,99%) về 3.833 ringgit (821,47 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá vẫn tăng 1,16%.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục