Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 2082/QĐ–TTg quyết định thành lập Hội đồng thẩm định quy hoạch tổng thể phát triển cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Hội đồng do Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng làm chủ tịch; thành viên Hội đồng là đại diện các bộ: GTVT, Kế hoạch và đầu tư, tài chính, Quốc phòng, Công an, Tài nguyên và môi trường, Khoa học công nghệ, Văn hóa – thể thao – du lịch, Công thương, Giáo dục, Thông tin và truyền thông; Văn phòng Chính phủ; đại diện Tổ tư vấn Thủ tướng; Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; đại diện các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Tp.HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Khánh Hòa; đại diện Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam; Hội Khoa học và công nghệ hàng không Việt Nam.
Các ủy viên phản biện gồm: Tiến sỹ Trần Quang Châu (Chủ tịch Hội khoa học kỹ thuật hàng không); Phó Giáo sư, tiến sỹ Tống Trần Tùng (Chủ tịch Hội đồng Khoa học kỹ thuật – Bộ GTVT); ông Bùi Văn Võ – nguyên Trưởng ban Không vận – Cục Hàng không Việt Nam.
Thủ tướng yêu cầu các cơ quan, địa phương cử đại diện tham gia Hội đồng trước ngày 20/10/2020.
Tại Báo cáo cuối kỳ Quy hoạch phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Cục Hàng không Việt Nam đề xuất đến năm 2030, cả nước sẽ có 26 cảng hàng không, bao gồm: 14 cảng hàng không quốc tế, 12 cảng hàng không nội địa.
Trong đó, 5 cảng hàng không quốc tế cửa ngõ gồm: Nội Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Tân Sơn Nhất, Long Thành;
So với mạng cảng hàng không toàn quốc theo Quyết định số 236/QĐ-TTg ngày 23/2/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch phát triển GTVT hàng không giai đoạn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, hệ thống cảng hàng không toàn quốc trong quy hoạch lần này giảm từ 28 xuống còn 26, trong đó 2 cảng hàng không gồm Nà Sản, Lai Châu được đề xuất quy hoạch xây dựng trong giai đoạn sau năm 2030.
Trong định hướng đến năm 2050, số lượng các cảng hàng không trong cảng nước sẽ gồm 30 cảng hàng không, bao gồm: 15 cảng hàng không quốc tế, 15 cảng hàng không nội địa, trong đó Cảng hàng không thứ 2 cho Vùng Thủ đô sẽ được nghiên cứu vị trí khi có nhu cầu, dự kiến vào năm 2040.
So với giai đoạn đến năm 2030, hệ thống cảng hàng không toàn quốc được bổ sung thêm 4 cảng hàng không gồm: Nà Sản, Lai Châu, Cao Bằng và Cảng hàng không thứ 2 cho Vùng Thủ đô sẽ được nghiên cứu vị trí khi có nhu cầu, dự kiến vào năm 2040).
Cục Hàng không Việt Nam đề xuất 4 dự án ưu tiên đầu tư trong giai đoạn đến năm 2030 gồm: Xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1, công suất 25 triệu khách/năm, từng bước triển khai giai đoạn 2 công suất 50 triệu hàng khách/năm; sẽ xây dựng Nhà ga T3 để nâng công suất toàn cảng lên 50 triệu khách/năm; mở rộng cảng hàng không quốc tế Nội Bài xây dựng ga T3 và khu bay phía Nam để đạt công suất 60 triệu hàng không/năm; mở rộng cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng và cảng hàng không quốc tế Cam Ranh đạt công suất lên 25 triệu khách/năm.
Ước tính chi phí đầu tư giai đoạn 2020 - 2030 khoảng 365.100 tỷ đồng; uớc tính chi phí đầu tư giai đoạn 2030 - 2050 khoảng 866.360 tỷ đồng.
Nguồn vốn thực hiện quy hoạch được huy động tổng hợp các nguồn lực đầu tư khác nhau như: vốn vay ODA, nguồn vốn ngân sách, vốn vay thương mại từ các tổ chức tài chính, vốn từ xã hội hóa đầu tư theo hình thức PPP.