Cơ chế thử nghiệm, ưu đãi đầu tư
Góp ý về Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số, bà Phạm Thúy Hạnh, Phó vụ trưởng Vụ Pháp luật (Văn phòng Chính phủ) cho rằng, Dự thảo cần tập trung vào 2 mảng chính sách lớn là vấn đề ưu đãi đầu tư và cơ chế cấp phép thử nghiệm. Theo đó, để phát triển lĩnh vực công nghiệp công nghệ số, quan trọng nhất là ưu đãi đầu tư, thủ tục đầu tư, chính sách, ưu đãi thuế, các chính sách liên quan...
Theo ông Nguyễn Quang Đồng, Viện Nghiên cứu chính sách và phát triển truyền thông (Hội Truyền thông số Việt Nam - VDCA), Chính phủ cũng cần thúc đẩy áp dụng cơ chế quản lý thử nghiệm (regulatory sandbox) và cơ chế tự quản dựa trên tiêu chuẩn cộng đồng/ngành được thừa nhận rộng rãi cho các mô hình kinh doanh mới, ứng dụng các công nghệ mới vào đời sống tại Việt Nam. Trong ngắn hạn, một sandbox hoàn toàn hữu ích và khả thi là Việt Nam có thể thử nghiệm việc chia sẻ dữ liệu giữa khu vực công với khu vực tư nhân để doanh nghiệp có thể khai thác hiệu quả và tối đa giá trị kinh tế của dữ liệu.
Đại diện VDCA đánh giá, quy định “doanh nghiệp tham gia thử nghiệm được miễn trách nhiệm dân sự nếu gây thiệt hại cho Nhà nước, được loại trừ trách nhiệm hành chính, hình sự khi đã tuân thủ đúng, đầy đủ quy định và các yêu cầu theo văn bản cho phép thử nghiệm của cơ quan có thẩm quyền” mang tính đột phá, tạo không gian thử nghiệm an toàn cho các doanh nghiệp triển khai công nghệ số mới.
Tuy nhiên, Dự thảo Luật quy định trường hợp doanh nghiệp thử nghiệm chịu trách nhiệm pháp lý là: “Trong quá trình thử nghiệm đã biết hoặc buộc phải biết về nguy cơ rủi ro, nhưng không kịp thời thông tin, báo cáo cơ quan có thẩm quyền và không áp dụng đầy đủ biện pháp phù hợp để ngăn ngừa, hạn chế mức độ thiệt hại có thể xảy ra”, dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp trong thực tế. Trong quá trình thử nghiệm, có thể cả Nhà nước và doanh nghiệp đều chưa lường hết được toàn bộ rủi ro có thể xảy ra, vì vậy, không thể bắt doanh nghiệp “buộc phải biết” về rủi ro.
Do đó, VDCA đề xuất, quy định trường hợp doanh nghiệp thử nghiệm phải chịu trách nhiệm pháp lý là “doanh nghiệp có khả năng biết về nguy cơ rủi ro, nhưng không thông báo đến cơ quan có thẩm quyền và không áp dụng đầy đủ các biện pháp đảm bảo an toàn đã nêu trong hồ sơ thử nghiệm để ngăn ngừa, hạn chế mức độ thiệt hại có thể xảy ra”.
Các điều kiện doanh nghiệp có khả năng biết về thiệt hại bao gồm: doanh nghiệp tự mình phát hiện ra lỗi của sản phẩm/dịch vụ, người dùng hoặc các bên khác cảnh báo/phản hồi về lỗi của sản phẩm, dịch vụ.
Còn ông Đỗ Văn Sử, Phó cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đề xuất, cần xây dựng các chính sách với “khu công nghệ số” trong Luật Công nghiệp công nghệ số, sao cho đồng bộ với Luật Khu công nghiệp, khu kinh tế do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì soạn thảo. Đối với các chính sách ưu đãi trong khu công nghệ số, đề nghị đơn vị chủ trì soạn thảo Luật Công nghiệp công nghệ số nên thuê công ty tư vấn có chuyên môn để rà soát lại từng điều khoản, quy định của pháp luật.
“Nóng” tài sản số
Năm 2023, dòng tài sản mã hóa vào Việt Nam lên đến 120 tỷ USD, lợi nhuận đạt 1,18 tỷ USD. Việt Nam có gần 21 triệu người sở hữu tiền số, chiếm tỷ lệ 21,2% dân số, thứ 3 toàn cầu nếu tính theo số lượng tuyệt đối.
Lần đầu tiên, Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số định nghĩa tài sản số tại Điều 8. Theo đó, tài sản số bao gồm tiền kỹ thuật số (tiền ảo, tiền điện tử, tiền mã hóa…), tài sản vô hình (tài sản trong game, tài sản trí tuệ, video, tranh ảnh kỹ thuật số…) và tài sản vật chất được số hóa tranh ảnh vật lý, tài sản tài chính.
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, cách tiếp cận hiện tại của Việt Nam là phải ghi nhận tài sản số, còn việc định hình nó, phân loại ra sao… thì làm từng bước một.
“Chúng ta quy định chung một khái niệm, sau đó bằng những văn bản dưới luật, có thể là nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, để dần dần điều chỉnh. Từ kinh nghiệm của các nước, khi thực tiễn chứng minh rằng đây là một nhu cầu lớn, diễn ra tương đối phổ biến, thì chúng ta phải có một khung khổ pháp lý và tiến hành thu thuế”, ông Tuấn nói và cho rằng, chỉ khi có pháp lý, công nghiệp công nghệ số mới phát triển mạnh mẽ, quyền và lợi ích của những người tham gia trong lĩnh vực này mới được bảo vệ.
Tương tự, ông Trương Bá Tuấn, Phó cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính) đề xuất, cần có khái niệm “tài sản số” thống nhất để phân loại đúng, vì mỗi tài sản số có thể phục vụ cho mục tiêu khác nhau, từ đó mới có căn cứ thực hiện việc thu thuế. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện pháp luật để bao quát được các hoạt động liên quan đến tài sản số.
Theo ông Trương Bá Tuấn, thời gian qua, dù không có khung pháp lý liên quan đến tài sản số, nhưng các giao dịch về tài sản số vẫn diễn ra thông qua sàn giao dịch nước ngoài và cá nhân. Vì vậy, cần thiết phải có khung pháp lý liên quan đến tài sản số. Trong đó, phải xác định và làm rõ định nghĩa tài sản số là gì, cũng như vị trí pháp lý của tài sản số. Nếu thừa nhận và quản lý tài sản số như tài sản thì đòi hỏi không chỉ sự tham gia của Bộ Tài chính, mà của rất nhiều bộ, ngành có liên quan.
CEO AlphaTrue, ông Trần Dinh kỳ vọng, Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số và các luật liên quan đến tài sản số sẽ mang lại sự minh bạch, cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong lĩnh vực này, đồng thời hạn chế chảy máu chất xám, cũng như thu hút nhiều dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam.
“Chúng tôi mong muốn thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình cho các doanh nghiệp thử nghiệm cũng như ứng dụng công nghệ mới, có sự kiểm soát nhất định. Tôi tin rằng, khi các quy định về tài sản số được luật hóa cụ thể, minh bạch, thì doanh nghiệp sẽ có thêm động lực, niềm tin để tiếp tục đầu tư, góp phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp số Việt Nam”, ông Dinh bày tỏ.