Cổ tức mùa đại hội - kỳ 2: Cổ tức bóp méo bức tranh tài chính

(ĐTCK) Quy định hiện hành về ghi nhận doanh thu với cổ tức bằng cổ phiếu có thể khiến doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước ghi nhận tới 2 lần một khoản doanh thu. 
Cổ tức mùa đại hội - kỳ 2: Cổ tức bóp méo bức tranh tài chính

Tại Nghị định 71/2013/NĐ-CP về đầu tư vốn Nhà nước vào DN và quản lý tài chính đối với DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, có quy định, DN do Nhà nước sở hữu 100% vốn có thể ghi nhận doanh thu hoạt động tài chính đối với khoản cổ tức được chia bằng cổ phiếu và các khoản cổ phiếu nhận được mà không phải trả tiền. Quy định này không phù hợp với thông lệ thế giới và bản chất tài chính, có thể dẫn tới sai lệch số liệu trên báo cáo tài chính (BCTC) của các DN trong nhóm này.

1. Cần biết NĐT với tư cách là chủ sở hữu của DN có quyền đối với toàn bộ lợi nhuận DN kiếm được tại thời điểm phát sinh, chứ không phải là tại thời điểm phân phối khoản lợi nhuận đó. Như vậy, nếu DN 100% vốn Nhà nước ghi nhận doanh thu tài chính đối với phần sở hữu của mình trong kết quả hoạt động kinh doanh tại DN được đầu tư thì cần phải ghi nhận tại kỳ phát sinh, chứ không phải kỳ thực hiện phân phối. 

2. Khi CTCP trả cổ tức bằng cổ phiếu, thực chất vốn chủ sở hữu của CTCP không giảm, không có luồng tiền ra, theo đó, phần sở hữu của NĐT trong vốn chủ sở hữu của CTCP không thay đổi. Nếu NĐT áp dụng phương pháp vốn chủ sở hữu đối với khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết thì NĐT đã ghi nhận ngay doanh thu tương ứng với phần được hưởng trong kết quả kinh doanh của công ty liên doanh, liên kết tại kỳ kế toán mà công ty liên doanh, liên kết có lãi. Nếu sau đó, công ty liên doanh, liên kết trả cổ tức bằng cổ phiếu, DN 100% vốn Nhà nước lại tiếp tục ghi nhận doanh thu một lần nữa thì sẽ xảy ra tình huống, cùng một khoản doanh thu tài chính, nhưng DN được ghi nhận tới hai lần.

Mặt khác, cùng là giao dịch tăng vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, nhưng với loại hình công ty TNHH, pháp luật lại không có quy định các thành viên góp vốn được ghi nhận doanh thu. Vậy, phải chăng cùng một giao dịch nhưng CTCP có cách xử lý khác so với các loại hình DN khác?

3. Việc quy định NĐT được ghi nhận doanh thu đối với số cổ phiếu nhận được mà không phải trả tiền khi CTCP sử dụng quỹ đầu tư phát triển hoặc thặng dư vốn cổ phần để phát hành cổ phiếu, thực sự không hợp lý và trái với bản chất tài chính. Thặng dư vốn cổ phần chính là phần vốn góp của cổ đông cao hơn mệnh giá, việc chuyển khoản thặng dư vốn cổ phần thành vốn cổ phần liệu có làm cho NĐT có lợi nhuận? Điều này cũng giống như việc NĐT góp 20.000 đồng, trong đó 10.000 đồng được ghi là mệnh giá và 10.000 đồng là thặng dư tại thời điểm góp vốn. Sau đó CTCP chuyển thặng dư thành cổ phiếu, NĐT từ chỗ chỉ có 1 cổ phiếu giờ lại có 2 cổ phiếu, nhưng thực chất số vốn góp không thay đổi. Tuy nhiên, với việc chuyển đổi này, NĐT lại được ghi nhận doanh thu và có lãi! Như vậy, NĐT chỉ cần góp vốn cao hơn mệnh giá rồi cứ việc ngồi chờ CTCP phát hành thêm cổ phiếu là có lợi nhuận? Chưa kể, NĐT còn phải nộp thuế TNDN trên số vốn mình mang đi góp. Còn Quỹ đầu tư phát triển thì được trích từ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, nên bản chất chả có gì khác biệt so với khoản cổ tức được chia bằng cổ phiếu.

4. Khi phát hành thêm cổ phiếu từ thặng dư vốn cổ phần, quỹ đầu tư phát triển hoặc lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, do số lượng cổ phiếu tăng, nhưng vốn chủ sở hữu không tăng nên giá trị thị trường và giá trị sổ sách của cổ phiếu bị pha loãng. Nếu ghi nhận doanh thu đối với cổ phiếu được chia, đồng thời ghi tăng giá trị khoản đầu tư, rất có khả năng một số (không phải tất cả), NĐT sẽ phải trích lập thêm dự phòng giảm giá chứng khoán. Hay nói cách khác, NĐT vừa ghi tăng doanh thu, vừa ghi tăng chi phí.

5. Việc cho phép các DN do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ ghi nhận doanh thu đối với cổ phiếu nhận được mà không phải trả tiền một lần nữa lại tạo ra cơ chế riêng đối với loại hình DN này, khi hiện nay, các công ty không thuộc sở hữu 100% của Nhà nước đang thực hiện theo thông lệ quốc tế, chỉ theo dõi số lượng cổ phiếu được nhận mà không ghi doanh thu. Quy định này không những làm mất đi khả năng so sánh của DN do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ với các DN khác, mà còn làm BCTC giảm tính trung thực, hợp lý.

Thiết nghĩ, cơ quan chủ trì soạn thảo Nghị định 71/2013 và Thông tư 220 hướng dẫn Nghị định 71 về quản lý tài chính đối với DN vốn Nhà nước cần nghiên cứu để hoàn thiện lại các chính sách tài chính áp dụng cho DN.

Bài 3: Hiểu thế nào cho đúng về cổ phiếu thưởng?

Trung Linh

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục