Cổ phiếu blue-chip và những ngộ nhận

(ĐTCK) Sự sai lệch của các khái niệm được lan truyền, nếu như không tìm hiểu tận gốc rễ của các vấn đề thì việc sử dụng trong trạng thái ngộ nhận được phổ biến rộng rãi sẽ tạo ra một hệ tư duy không đúng đắn trong đầu tư chứng khoán.
Cổ phiếu blue-chip và những ngộ nhận

Nguồn gốc khái niệm blue-chip

Nếu như có dịp trò chuyện hoặc lắng nghe những trao đổi từ các chuyên viên tư vấn chứng khoán với khách hàng, cụm từ cổ phiếu blue-chip là một trong những “key word” (từ khóa) được lặp đi lặp lại, nhằm ám chỉ những công ty có các đặc điểm nào đó chung với nhau mà ai cũng có thể nhận diện.

Đầu tiên, nghĩa tiếng Việt tạm dịch của blue-chip tức là thẻ xanh và cụm từ thẻ xanh không bắt nguồn từ thị trường chứng khoán, mà là trong các casino, cụ thể là trong trò chơi poker (xì phé). Những người chơi trò này không dùng tiền mặt để đặt cược, mà quy đổi sang các thẻ chip có ba màu phổ biến là xanh, trắng, đỏ, trong đó thẻ màu xanh tương ứng với giá trị lớn nhất.

Khái niệm cổ phiếu blue-chip lần đầu tiên được Oliver Gingold (làm việc tại Công ty Dow Jones, sáng lập bởi Charles Dow vào thế kỷ 19) sử dụng để mô tả những cổ phiếu có giá cao, giao dịch tại mức 200 USD/cổ phiếu hoặc hơn trên thị trường chứng khoán Mỹ. Ngày nay, các cổ phiếu blue-chip không nhất thiết phải có giá cao, nhưng hàm ý là cổ phiếu của công ty có chất lượng cao, đã trải qua thời gian dài khó khăn.

Một cổ phiếu được gọi là blue-chip nếu thỏa mãn ba yếu tố sau (theo Investopedia): công ty có nền tảng bền vững, có sản phẩm, dịch vụ quen thuộc đối với người tiêu dùng; được đánh giá ở mức an toàn hơn so với nhóm các công ty khác đã được chứng minh bằng kết quả qua thời gian; công ty đầu ngành hoặc có tác động lớn tới ngành nghề đó.

Nhờ ba đặc điểm này, các cổ phiếu blue-chip thường được chọn để tính những chỉ số tham chiếu như Dow Jones, S&P 500, Nasdaq 100… và ở Việt Nam phổ biến có VN30, HNX30, tương ứng với 30 cổ phiếu trên hai sàn HOSE và HNX.

Sự hiểu biết sai lầm

Những nhà đầu tư lâu năm tại Việt Nam thường trải qua các cuộc trao đổi với chuyên viên tư vấn như “thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn biến động mạnh, anh/chị nên chọn những cổ phiếu blue-chip có tính an toàn và ổn định hơn, hoặc những công ty lớn như VNM, VIC, MSN... để tạm tránh bão trong giai đoạn này”. Theo đó, tính an toàn và ổn định được định nghĩa theo sự biến động của giá cổ phiếu, chứ không phải tình hình tài chính, kinh doanh của công ty.

Trong ngôn ngữ chuyên môn của ngành tài chính, đó là hệ số Beta (đo lường sự biến động của giá cổ phiếu so với thị trường chung).

Cổ phiếu blue-chip và những ngộ nhận ảnh 1

Hệ số Beta cao tức cổ phiếu biến động mạnh hơn thị trường và được xem là rủi ro hơn, từ đây sinh ra một loạt lý thuyết và công cụ tính toán phức tạp nhằm tối ưu hóa danh mục đầu tư - đạt được lợi nhuận lớn nhất tại cùng mức rủi ro hoặc ngược lại, đặt ra một cùng một mức lợi nhuận sau đó tìm danh mục ít rủi ro nhất dựa trên sự biến động của giá cổ phiếu.

Chính sự hiểu biết sai lầm này kéo theo đoạn nói chuyện sau giữa không ít chuyên viên tư vấn: “Vừa rồi tư vấn cho khách hàng cổ phiếu VNM, hôm nay cổ phiếu về tài khoản lỗ 20% vì có dùng margin (vay ký quỹ), blue-chip mà biến động cao thế, ai nói “oánh” blue-chip là không lỗ chứ, blue-chip mà biến động hơn cả cổ phiếu đầu cơ”.

Có vẻ blue-chip bắt nguồn từ casino qua thị trường chứng khoán thì bản chất vẫn là “sòng bạc” theo tư duy của nhiều người. Thế là tư duy này được truyền qua nhiều người khác, đem lại những suy nghĩ tiêu cực và biến thành một vòng luẩn quẩn.

Thực ra, các nhà giao dịch này nhìn chỉ cổ phiếu như ba ký tự, có bốn màu hiển thị trên bảng điện, mục tiêu của họ là chọn ra những cổ phiếu nằm ở hai màu xanh lá cây và tím (tức giá tăng) mà không có một nền tảng, phương pháp đi kèm.

Còn người tư vấn tư duy mình như một người bán hàng, chứ không phải là đối tác hỗ trợ cho khách hàng đầu tư một cách hiệu quả thực sự. Cần nhớ rằng, Warren Buffett không cố gắng bán cho bất cứ ai các cơ hội đầu tư, ông chỉ muốn làm giàu từ đầu tư.

Thanh khoản sẽ ít rủi ro?

Danh mục đầu tư của các quỹ lớn lại Việt Nam như VOF, VEIL, Pyn Elite, KIM…. đều xuất hiện những cái tên rất quen thuộc đối với nhà đầu tư, có thể sản phẩm, dịch vụ của công ty mà nhà đầu tư chưa tìm hiểu kỹ, nhưng nó quen thuộc trên thị trường chứng khoán vì đã được niêm yết từ lâu, có tính thanh khoản cao, là một điều kiện đáp ứng tính an toàn cho cả cá nhân và theo điều lệ của các quỹ.

Nhưng cần lưu ý, thanh khoản không phải là nhân tố cấu thành nên sự an toàn trong mô hình kinh doanh của công ty, mà đây thuộc dạng rủi ro giao dịch, để thỏa mãn tính chuyển đổi nhanh thành tiền khi nhà đầu tư có nhu cầu rút vốn (chính vì vậy, dòng tiền thường tập trung vào cổ phiếu của các công ty này, trong đó có tiền vay, khiến cho giá cổ phiếu biến động với biên độ lớn trong ngắn hạn, ngoài ra không có ý nghĩa gì hơn).

Cổ phiếu blue-chip và những ngộ nhận ảnh 2

Sự nhìn nhận sai về rủi ro này sinh ra khái niệm “phần bù rủi ro thanh khoản”, những cổ phiếu có tính thanh khoản thấp phải được giao dịch với mức giá thấp hơn. Bên cạnh đó, với số tiền quản lý lớn khi ý tưởng hoặc số lượng công ty chưa đủ đáp ứng dễ dẫn tới tình trạng đầu tư theo phong cách “tàu Noah - nồi lẩu thập cẩm”.

Các quỹ thường bị ràng buộc giới hạn giải ngân vào một công ty không vượt quá 5 - 10% quy mô vốn của họ, điều này đi ngược lại với nhà đầu tư thành công nhất mọi thời đại - Warren Buffett và là điều bình thường giải thích cho việc tại sao các quỹ khó chiến thắng được thị trường trong dài hạn.

Không có một tiêu chuẩn chung nào cho các nhân tố phi tài chính có thể đưa ra cho tất cả các doanh nghiệp, nhưng hãy xem Warren Buffett nhìn nhận một công ty chất lượng cao có những biểu hiện về mặt tài chính như thế nào qua một số tiêu chí sau.

Thứ nhất, công ty thể hiện lợi nhuận trên vốn cổ phần, vốn sử dụng (ROE và ROCE) một cách nhất quán (trên 12%). Đây là một trong những dấu hiệu của công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững, cho phép công ty có thể phục hồi nhanh sau giai đoạn khó khăn hoặc sụt giảm mạnh từ sự phản ứng thái quá của thị trường chứng khoán.

Thứ hai, lợi nhuận thể hiện xu hướng đi lên bền vững, cần lưu ý đánh giá khách quan những trường hợp sụt giảm lợi nhuận của công ty trong giai đoạn ngắn, vì ngay cả những công ty có lợi thế vẫn sẽ có những năm kinh doanh rơi vào tình trạng khó khăn.

Thứ ba, chính sách tài trợ vốn của công ty như thế nào, các công ty có lợi thế cạnh tranh thường không phải vay nợ nhiều đặc biệt là nợ dài hạn.

Thứ tư, khả năng tăng giá bán của sản phẩm, dịch vụ, tức thặng dư về giá trong mối tương quan với lạm phát.

Thứ năm, công ty phân bổ vốn, tái đầu tư lợi nhuận có hiệu quả hay không.

Thứ sáu, nhận thức của ban lãnh đạo về giá trị thực công ty và những biện pháp bảo vệ quyền lợi của cổ đông ra sao.

Nếu xét theo các tiêu chí này thì không nhiều công ty tại Việt Nam có thể được gọi là blue-chip.

Blue-chip là khoản đầu tư tốt?

 Warren thường chọn khung thời gian ít nhất 10 năm trong lịch sử để tìm hiểu về các công ty chất lượng cao, trong khi thị trường chứng khoán Việt Nam mới tròn 19 tuổi và còn rất nhiều việc phải làm.

Các cổ phiếu có vốn hóa trên 10.000 tỷ đồng tại thị trường Việt Nam được xếp vào loại vốn hóa lớn (Large Cap), nhưng đây là mức vốn hóa nhỏ (Small Cap) nếu so với thị trường Mỹ.

Một số tiêu chí của các Small Cap trên thị trường Mỹ như sau: đã niêm yết lên sàn chứng khoán ít nhất 10 năm, đây là khoảng thời gian đủ dài để các công ty trải qua được những khủng hoảng trong kinh doanh và trên thị trường chứng khoán, hình thành đầy đủ các bộ phận phòng ban và cập nhật các thông lệ, tiêu chuẩn quốc tế vào trong bộ máy; cung cấp thông tin tới nhà đầu tư một cách đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời; vốn hóa thị trường đạt trên 10.000 tỷ đồng; cơ cấu cổ đông không quá tập trung, nhà sáng lập và các bên liên quan không nắm giữ quá 25% vốn điều lệ, có các bên đối trọng là nhà đầu tư nước ngoài hoặc các quỹ đầu tư; thanh khoản thị trường thường đạt trên 100.000 cổ phiếu/phiên; hoạt động kinh doanh chính tương đối ổn định…

Blue-chip không hàm ý sẽ là một khoản đầu tư tốt, khoảng cách này đôi khi rất xa. Tại thị trường Mỹ đã có nhiều cuộc nghiên cứu, khảo sát, chứng minh rằng, trong một khoảng thời gian dài, Small Cap thường có mức sinh lời tốt hơn Large Cap.

Câu chuyện nghiên cứu sẽ đóng góp một vài tư duy hữu ích cho quá trình đầu tư, nhưng điểm cốt yếu là nhà đầu tư không nên nhìn nhận cổ phiếu như một tờ giấy và tự giới hạn việc đầu tư của mình trong nhóm cổ phiếu có quy mô nhất định, phải tư duy như chủ sở hữu doanh nghiệp và chọn cho mình phương pháp, chiến lược phù hợp để tìm ra giá trị thực sự của công ty.

VOT partners - Email: info@votpartners.com

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục