Xuất khẩu vào EU cần lưu ý quy định về phát thải carbon

(ĐTCK) Chỉ còn hơn 1 năm nữa là Cơ chế điều chỉnh biên độ carbon của Liên minh châu Âu (EU) có hiệu lực đầy đủ, các quy trình và thực tiễn mới sẽ được đặt ra đối với việc nhập khẩu hàng hóa vào thị trường này, tập trung vào mặt hàng sắt, thép, nhôm, xi măng, hydrogen, một số loại phân bón…
Sản phẩm sắt, thép, xi măng, phân bón, hydrogen nằm trong danh sách bị ảnh hưởng bởi CBAM Sản phẩm sắt, thép, xi măng, phân bón, hydrogen nằm trong danh sách bị ảnh hưởng bởi CBAM

Quy định của CBAM

Sau giai đoạn chuyển tiếp, cơ chế điều chỉnh biên độ carbon (CBAM) của EU có sẽ hiệu lực đầy đủ từ ngày 1/1/2026. Theo đó, đây là một loại thuế được áp dụng tại điểm nhập khẩu đối với một số sản phẩm và cung cấp điện từ các nước thứ ba vào EU.

CBAM đưa ra mức thuế nhập khẩu đối với các loại hàng hóa thuộc Hệ thống giao dịch quyền phát thải của EU (EU ETS) nhằm ngăn ngừa “rò rỉ carbon” (doanh nghiệp chuyển dịch sản xuất hoặc nhập khẩu từ các quốc gia thứ ba có tiêu chuẩn môi trường thấp hơn), qua đó duy trì tính cạnh tranh của các ngành công nghiệp đang chịu phí carbon theo EU ETS, góp phần thực hiện Kế hoạch Xanh EU và Fit for 55, với mục tiêu giảm lượng phát thải khí nhà kính (GHG) xuống 55% vào năm 2030.

Các loại hàng hóa chịu sự tác động của CBAM được cụ thể hóa trong Phụ lục I, bao gồm sắt, thép, nhôm, xi măng, hydrogen, một số loại phân bón và sản phẩm liên quan đến việc sản xuất dầm cầu, đường ray, ống dẫn, vít. Các sản phẩm được xác định vào diện áp dụng CBAM dựa trên mã HS đã được liệt kê và quốc gia xuất xứ.

TS. Trần Khánh Lâm, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), Chủ tịch Ủy ban Kiểm toán & Tuân thủ, Liên đoàn Kế toán châu Á - Thái Bình Dương (CAPA)

TS. Trần Khánh Lâm, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), Chủ tịch Ủy ban Kiểm toán & Tuân thủ, Liên đoàn Kế toán châu Á - Thái Bình Dương (CAPA)

Việc nhập khẩu điện vào EU cũng trở thành một phần của CBAM, nhưng không áp dụng cho những nguồn cung cấp điện từ các quốc gia thứ ba mà thị trường điện của họ đã được tích hợp hoàn toàn với thị trường điện của EU. Điều kiện cho sự loại trừ này đòi hỏi quốc gia thứ ba phải tuân thủ nghĩa vụ áp dụng luật EU liên quan đến điện, bao gồm cả phát triển năng lượng tái tạo, cũng như phải xây dựng và tuân thủ một lộ trình rõ ràng đề ra các biện pháp với mục tiêu đạt được trung tính khí hậu vào năm 2050 và đáp ứng các hạn chót cụ thể vào năm 2030. Điều này cũng bao gồm việc thiết lập một hệ thống giao dịch quyền phát thải quốc gia cho điện với giá tương đương với giá của hệ thống EU ETS. Bên cạnh đó, quốc gia thứ ba cần phải có các biện pháp kiểm soát hiệu quả để ngăn chặn việc điện từ các quốc gia khác được nhập khẩu một cách gián tiếp vào EU.

Nhìn chung, các mặt hàng bị ảnh hưởng bao gồm thép, xi măng và một số loại phân bón. Mức giới hạn giá trị cho mỗi lô hàng thấp, tối đa là 150 Euro (cũng là ngưỡng khai báo hải quan của EU), đồng nghĩa với hầu hết các nhà nhập khẩu và nhà sản xuất hàng hóa sẽ phải mua chứng chỉ EU CBAM dựa trên lượng khí thải carbon có trong sản phẩm.

Luật lệ liên quan đến vấn đề này hiện nay rất phức tạp và đang tiếp tục được xây dựng. Do đó, các doanh nghiệp cần khẩn trương xác định liệu mình có bị ảnh hưởng hay không. Nếu có, doanh nghiệp cần phải đăng ký hoặc tìm kiếm đối tác, tư vấn để xử lý các thủ tục thực tế liên quan đến CBAM. Các doanh nghiệp bị ảnh hưởng cần cập nhật hệ thống thông tin của mình và xem xét, đánh giá lại mô hình kinh doanh hiện tại. Các kế toán viên sẽ phải tham gia vào việc lập kế hoạch và công bố thông tin liên quan đến CBAM. Các doanh nghiệp phải hiểu biết về các quy định và xem xét xem khách hàng nào của mình có thể thuộc diện này. Các doanh nghiệp và chuyên gia tư vấn nên liên hệ với cơ quan có thẩm quyền của chính phủ và cập nhật các thông tin chi tiết trên trang web của Ủy ban châu Âu.

Theo CBAM, mọi sản phẩm thuộc Phụ lục I khi nhập khẩu từ các quốc gia không thuộc EU đều phải tuân thủ theo quy định của CBAM, trừ khi những quốc gia này nằm trong Phụ lục III. Phụ lục III bao gồm những quốc gia thuộc Khu vực Kinh tế châu Âu (EEA) như Iceland, Na Uy, Liechtenstein, Thụy Sĩ và một số lãnh thổ khác, những đơn vị này hoặc đã được tích hợp vào EU ETS hoặc đã xây dựng một hệ thống ETS riêng có sự liên kết với EU. Để một quốc gia thứ ba được thêm vào Phụ lục III, họ phải cam kết liên kết hệ thống ETS của họ với EU một cách toàn diện, hoặc minh chứng rằng giá carbon mà họ áp dụng cho các sản phẩm sản xuất không bị hoàn lại quá mức so với giá đã được áp dụng trong EU ETS. Điều này tạo điều kiện cho sự hợp tác quốc tế và đảm bảo một sân chơi công bằng trong thương mại toàn cầu liên quan đến chính sách môi trường.

Thực tiễn nhập khẩu hàng hóa của EU từ năm 2026

Các doanh nghiệp sản xuất phải thực hiện chuyển đổi xanh, nếu không sẽ phải chịu một mức thuế carbon theo quy định của CBAM khi xuất khẩu vào EU.

Khi CBAM bắt đầu có hiệu lực đầy đủ vào ngày 1/1/2026, các quy trình và thực tiễn mới sẽ được đặt ra đối với việc nhập khẩu hàng hóa vào EU. Cụ thể, tất cả hàng hóa nằm trong danh mục của Phụ lục I chỉ có thể được nhập khẩu bởi những người khai báo (declarant - cá nhân hoặc tổ chức chịu trách nhiệm nhập khẩu các hàng hóa) được ủy quyền của CBAM, những người này phải hoàn thành thủ tục đăng ký thông qua một hệ thống sổ đăng ký CBAM trung tâm. Họ sẽ chịu trách nhiệm mua chứng chỉ CBAM để thanh toán thuế theo quy định, nhằm đảm bảo rằng tất cả hàng hóa nhập khẩu đều tuân thủ các tiêu chuẩn phát thải của EU, trừ các lô hàng có giá trị dưới 150 Euro.

Mỗi quốc gia thành viên EU đã thiết lập Cơ quan quốc gia có thẩm quyền (NCA) để kiểm soát và quản lý quá trình đăng ký này. Trước khi cấp phép, NCA sẽ xác minh xem người đăng ký (registrant - cá nhân hoặc tổ chức đã đăng ký để trở thành người tuyên bố CBAM ủy quyền) có đáp ứng các yêu cầu cần thiết, không tham gia vào các vi phạm hải quan nghiêm trọng, có đủ khả năng tài chính và hoạt động để đáp ứng nghĩa vụ của họ hay không. Đôi khi, một bảo lãnh tài chính có thể được yêu cầu từ người đăng ký.

Bên cạnh vai trò của nhà nhập khẩu, một “đại diện hải quan gián tiếp” cũng có thể được chỉ định để hành động như người khai báo. Điều này phổ biến đối với những nhà nhập khẩu không cư trú tại EU, khi họ cần một đại diện trong EU để hoàn tất thủ tục đăng ký và xử lý các nghĩa vụ theo CBAM.

Ngoài ra, các nhà vận hành và cơ sở ở các quốc gia thứ ba có thể đăng ký thông tin của họ trong sổ đăng ký CBAM, cho phép họ cung cấp thông tin cần thiết để người tuyên bố tại EU có thể thực hiện đúng các nghĩa vụ báo cáo và mua chứng chỉ CBAM. Điều này được thực hiện để đảm bảo rằng, các thông tin cần thiết cho việc xác minh và ghi chép lượng phát thải GHG kèm theo được quản lý một cách chính xác.

Trong giai đoạn chuyển tiếp từ ngày 1/10/2023 đến 31/12/2025, các nhà nhập khẩu có liên quan được yêu cầu nộp báo cáo hàng quý chi tiết về lượng phát thải carbon kèm theo trong hàng hóa nhập khẩu. Giai đoạn chuyển tiếp giúp các quốc gia thành viên và doanh nghiệp có thời gian để thích ứng và tinh chỉnh hệ thống báo cáo. Trong giai đoạn này, việc mua hoặc nộp chứng chỉ CBAM không được yêu cầu nhằm giảm bớt gánh nặng ban đầu cho các doanh nghiệp trong việc chuyển đổi sang hệ thống mới.

Các cơ quan quốc gia thành viên sẽ có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ và có thẩm quyền áp đặt phạt nếu có sự vi phạm nghĩa vụ báo cáo hoặc có sự không chính xác trong dữ liệu báo cáo. Điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp cần phải chú trọng đến việc tuân thủ quy định ngay từ những ngày đầu tiên của quá trình chuyển đổi.

Từ ngày 1/1/2026, người khai báo CBAM phải đảm bảo đã mua đủ chứng chỉ CBAM để bao phủ ít nhất 80% lượng phát thải GHG kèm theo trong hàng hóa thuộc Phụ lục I của họ trong quý đó. Chi phí của chứng chỉ CBAM sẽ dựa trên mức giá trung bình hàng tuần của giấy phép phát thải carbon EU, phản ánh chi phí thực tế của việc phát thải theo giá thị trường. Không có sự giới hạn về số lượng chứng chỉ CBAM có thể mua. Người khai báo cần nộp báo cáo hàng năm vào ngày 31/5, cung cấp thông tin chi tiết về: số lượng hàng hóa (tính theo tấn), điện (tính theo MWh) nhập khẩu vào EU; tổng lượng phát thải GHG kèm theo trong các lô hàng nhập khẩu; số lượng chứng chỉ CBAM cần nộp (được tính sau khi trừ đi chi phí ròng đã trả cho phát thải GHG tại quốc gia xuất xứ của hàng hóa/điện); bản sao của các báo cáo xác minh do các nhà xác minh được công nhận cấp.

Việc giữ hồ sơ đầy đủ và chính xác là một phần quan trọng của quy trình, với yêu cầu các bản ghi phải được lưu trữ trong 4 năm sau năm tuyên bố. Điều này sẽ giúp đảm bảo tính minh bạch và cho phép theo dõi hiệu quả việc tuân thủ các quy định của CBAM. Sự giảm dần của phụ cấp miễn phí EU ETS sẽ được thực hiện song song với việc triển khai CBAM, dẫn đến một hệ thống đầy đủ hoạt động vào năm 2034, khi chứng chỉ CBAM sẽ phản ánh đầy đủ chi phí GHG của EU ETS.

Cách tính lượng phát thải GHG

Các loại phát thải GHG bao gồm lượng phát thải thực tế của carbon dioxide, nitrous oxide và perfluorocarbons. Các loại GHG cụ thể cho một loại hàng hóa cụ thể được quy định trong Phụ lục I và II.

Mặc định, cả lượng phát thải trực tiếp và gián tiếp của GHG được bao gồm trong việc tính toán. Tuy nhiên, đối với những hàng hóa được liệt kê trong Phụ lục II, chỉ lượng phát thải trực tiếp của GHG trong quá trình sản xuất được bao gồm. Hàng hóa thuộc Phụ lục II chủ yếu là sắt, thép, nhôm và hydro.

Phát thải trực tiếp có nghĩa là phát thải từ quá trình sản xuất hàng hóa, bao gồm cả phát thải từ việc sản xuất sưởi ấm và làm mát được tiêu thụ trong quá trình sản xuất, bất kể vị trí sản xuất sưởi ấm hoặc làm mát. Lượng phát thải kèm theo phải được tính toán sử dụng các phương pháp được nêu trong Phụ lục IV. Công thức riêng biệt được quy định cho hàng hóa đơn giản và phức tạp. Việc tính toán phải được thực hiện cho mỗi cơ sở sản xuất hàng hóa.

Nói chung, lượng phát thải được gán cho mỗi tấn hàng hóa đơn giản tại mỗi cơ sở là tổng lượng CO2 phát thải trực tiếp và lượng CO2 phát thải gián tiếp chia cho số tấn hàng hóa trong kỳ báo cáo.

Ví dụ, nếu một nhà máy sản xuất xi măng ở một quốc gia thứ ba không có cơ chế giá CO2 đã sản xuất 100.000 tấn xi măng trong năm 20X8, tạo ra lượng phát thải trực tiếp 45.000 tấn CO2 và gián tiếp 45.000 tấn CO2, việc tính toán sẽ như sau: (45.000 tấn CO2 + 45.000 tấn CO2)/100.000 tấn xi măng = 0,9 tấn CO2 phát thải trên mỗi tấn xi măng trong kỳ báo cáo.

Với mức giá trung bình hàng ngày của EU ETS là 80 Euro mỗi tấn CO2, chi phí CBAM cho mỗi tấn xi măng sẽ là 72 Euro. Nếu một nửa số sản phẩm được nhập khẩu vào EU, người khai báo phải mua chứng chỉ tương đương ít nhất 2,88 triệu Euro (50.000 x 0,9 x 80 Euro) x 80% trong năm 20X8 và sau đó nộp chứng chỉ CBAM tổng cộng 3,6 triệu Euro vào ngày 31/5/20X9.

Nếu dữ liệu phát thải thực tế không có sẵn, có thể sử dụng các giá trị mặc định được thu thập dữ liệu nghiên cứu có liên quan và được công bố công khai. Không có tiêu chí cụ thể nào để xác định độ tin cậy của dữ liệu nghiên cứu, nhưng Ủy ban châu Âu sẽ công bố hướng dẫn và thu thập dữ liệu để xác định giá trị mặc định. Tính đến thời điểm hiện nay, không có thông tin chi tiết nào khác về giá trị mặc định.

Nếu dữ liệu đáng tin cậy không có sẵn cho quốc gia xuất khẩu, lượng phát thải kèm theo sẽ được tính toán sử dụng dữ liệu phát thải dựa trên 10% các nhà sản xuất kém hiệu quả nhất trong EU.

Quản lý và xác nhận chứng chỉ CBAM

Trong khuôn khổ CBAM của EU, các quốc gia thành viên cần phải thiết lập một nền tảng trung tâm chung để phân phối chứng chỉ CBAM đến những người đăng ký trong lãnh thổ của họ. Số lượng chứng chỉ CBAM cần mua sẽ dựa trên lượng phát thải GHG kèm theo của hàng hóa được nhập khẩu, trừ đi số tiền đã trả cho phát thải GHG ở quốc gia xuất xứ, có thể thông qua các thuế carbon, hệ thống giao dịch quyền phát thải, hoặc các chương trình giảm phát thải carbon tương tự.

Tuy nhiên, mức giá phát thải GHG ở nhiều quốc gia thứ ba thường thấp hơn nhiều so với giá của giấy phép EU ETS, đôi khi chỉ áp dụng cho một phạm vi hàng hóa hạn chế. Ví dụ, giá trị trung bình hàng ngày của Công ty XYZ vào năm 2022 là 8 USD mỗi tấn, so với mức giá 80,32 Euro mỗi tấn của EU ETS. Điều này có nghĩa là nhiều nhà nhập khẩu phải chịu thêm chi phí bổ sung khi tuân thủ quy định của CBAM.

Để được giảm giá, chỉ số tiền carbon thực tế đã được thanh toán mới được xem xét. Nếu quốc gia xuất xứ áp dụng các khoản hoàn lại hoặc hỗ trợ tương tự, những khoản này phải được trừ đi để tính ra số lượng ròng phải trừ khỏi giá trị chứng chỉ CBAM cần mua. Người khai báo cần phải lưu giữ hồ sơ, bao gồm cả thông tin về số tiền thực tế đã trả và các khoản hoàn lại, với thông tin trong hồ sơ phải được chứng nhận bởi một bên độc lập.

Riêng về chứng chỉ CBAM dư thừa, những chứng chỉ này có thời hạn và phải được nộp trước ngày 30/6 của năm tiếp theo sau năm mua chúng. Những chứng chỉ không sử dụng sẽ tự động bị hủy khỏi sổ đăng ký của Ủy ban châu Âu. Khác với EU ETS, chứng chỉ CBAM không thể được giao dịch trên thị trường mở. Người khai báo có thể yêu cầu hoàn lại tiền cho chứng chỉ dư thừa, nhưng số lượng hoàn lại bị hạn chế ở một phần ba số lượng đã mua trong năm trước đó. Số tiền hoàn lại là số tiền đã trả cho chứng chỉ, không điều chỉnh theo biến động giá phát thải từ thời điểm mua. Do đó, người khai báo cần có hệ thống tính toán chính xác để tránh mua số lượng chứng chỉ CBAM dư thừa không thể hoàn lại sau này. Việc không nộp đủ số lượng chứng chỉ sẽ dẫn đến việc áp dụng các khoản phạt.

Ngoài ra, từ ngày 1/1/2026, tổng lượng phát thải GHG kèm theo được tuyên bố trong báo cáo CBAM phải được xác nhận bởi một đơn vị xác nhận dữ liệu được công nhận (accredited verifier). Điều này đòi hỏi đơn vị xác nhận phải được công nhận theo các tiêu chuẩn và quy định thực hiện xác minh của EU ETS. Những đơn vị xác nhận này có nhiệm vụ đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của dữ liệu phát thải GHG được báo cáo và báo cáo xác minh chỉ được coi là hợp lệ nếu nhà xác minh có thể đảm bảo rằng việc tính toán lượng phát thải trong báo cáo không chứa các sai sót nghiêm trọng hoặc vi phạm quan trọng.

Quy trình xác minh bao gồm việc tham quan các cơ sở liên quan, trừ khi có hoàn cảnh đặc biệt cho phép bỏ qua bước này. Ủy ban châu Âu có quyền ban hành các quy định bổ sung như việc thiết lập các ngưỡng quyết định liệu sai sót hay vi phạm có quan trọng hay không, định dạng của báo cáo xác nhận và tài liệu hỗ trợ, nhằm đảm bảo việc nhập khẩu hàng hóa vào EU tuân thủ các tiêu chuẩn phát thải GHG và góp phần vào mục tiêu giảm phát thải toàn cầu.

Kết luận

CBAM mang lại một bước chuyển mình đáng kể trong chính sách môi trường và thương mại quốc tế. Đây là một bước tiến quan trọng nhằm thực thi mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của EU, cũng như đảm bảo công bằng thương mại và bảo vệ các ngành công nghiệp chiến lược của EU.

CBAM, với việc áp thuế nhập khẩu cho các sản phẩm và điện từ các quốc gia thứ ba không tuân thủ tiêu chuẩn phát thải GHG của EU, đã tạo ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp trên toàn cầu, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất thép, xi măng, phân bón. Các doanh nghiệp cần nhanh chóng thích nghi với các quy định mới, cập nhật hệ thống thông tin và xem xét lại mô hình kinh doanh hiện tại. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực lớn không chỉ về mặt kỹ thuật, mà còn cả về chiến lược, để tuân thủ các quy định và tránh những hậu quả tài chính không mong muốn.

TS. Trần Khánh Lâm

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục