Áp lực lạm phát cao hơn vào cuối năm
Đây là quan điểm được TS Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia chia sẻ tại buổi toạ đàm "Áp lực lạm phát năm 2022 và đề xuất chính sách" do Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) thuộc Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức sáng 16/9.
Theo vị chuyên gia này, các nhà điều hành ở nhiều nước luôn muốn tìm điểm tối ưu, cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Để đưa ra các chính sách phù hợp, cần phải nhận diện lạm phát do yếu tố chi phí đẩy, chính sách tiền tệ hay do cả hai yếu tố này. Ngoài ra, cũng cần phải quan sát các chỉ số sản xuất và lạm phát lõi (core inflation).
Tại Việt Nam, ông Lực cho rằng, lạm phát ở Việt Nam vẫn chưa đạt đỉnh, còn độ trễ, và sẽ chịu áp lực trong những tháng cuối năm bởi yếu tố cầu kéo.
Nguyên nhân một phần do rổ hàng hoá trong cách tính CPI của Việt Nam có sự khác biệt so với nhiều nước.
Cùng với đó, thời gian qua CPI của Việt Nam vẫn trong tầm kiểm soát một phần do Chính phủ đã thực hiện bình ổn giá xăng, dầu; bình ổn giá lương thực, thực phẩm; và giá nhà ở - những nhóm mặt hàng đóng góp tới 80-90% vào chỉ số lạm phát ở Việt Nam.
"Về cuối năm, khi nhu cầu tiêu thụ những mặt hàng này tăng cao sẽ gây nên áp lực lạm phát do cầu kéo. Trong năm tới, kinh tế Việt Nam sẽ gặp nhiều thách thức hơn khi tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại, tác động tới hoạt động xuất khẩu và đầu tư", ông Lực nói.
Vẫn cần phải duy trì công cụ hạn mức tín dụng trong thời điểm hiện tại và trong tương lai gần. Trong 1-2 năm tới, cần nghiên cứu bỏ công cụ này và thay bằng các công cụ khác có tính thị trường hơn, gián tiếp hơn.
TS. Cấn Văn Lực
Trước đó, TS Cấn Văn Lực và nhóm chuyên gia của Viện nghiên cứu đào tạo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) dự báo năm 2022, trong kịch bản cơ sở, tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt 6-6,5%; lạm phát khoảng 3,8-4,2%.
“Về cơ bản mức lạm phát này chấp nhận được và nếu trên 4% cũng phải chấp nhận vì bối cảnh lạm phát trên thế giới năm nay rất cao”, TS. Lực nêu quan điểm.
VEPR hạ dự báo lạm phát 2022 còn 3,5 - 3,8%
Tại Toạ đàm, TS. Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng VEPR công bố Báo cáo của VEPR mang tên "Áp lực lạm phát năm 2022 và các đề xuất giải pháp".
Toàn cảnh buổi Toạ đàm sáng 16/9 |
Báo cáo nhận định, mặc dù kinh tế vẫn đang phục hồi sau đại dịch nhưng rủi ro suy giảm đã gia tăng, với những bất ổn đến từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm: cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine và những căng thẳng địa chính trị khác, lạm phát tăng vọt, điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt mạnh mẽ và kinh tế Trung Quốc giảm tốc; nền kinh tế Mỹ đối mặt với nguy cơ tăng trưởng chậm lại đáng kể trong quý 3 năm 2022, thị trường cầu hàng hóa bị giảm dần dưới tác động của lạm phát tăng cao và các điều kiện tài chính thắt chặt; các nền kinh tế khu vực đồng tiền chung châu Âu tiếp tục bị ảnh hưởng nặng nề bởi tác động của cuộc xung đột ở Ukraine, và lạm phát giá nhập khẩu năng lượng...
Trong giai đoạn 2022-2023, triển vọng kinh tế toàn cầu đã xấu đi, tăng trưởng GDP thực tế toàn cầu dự kiến sẽ giảm xuống từ 1,7 - 3,7% năm 2022 và 1,8 - 4,0% vào năm 2023.
Kết quả là, lạm phát ở các quốc gia phát triển đang đạt đến mức chưa từng thấy kể từ những năm 1980. Lạm phát toàn cầu dự kiến sẽ tăng từ 7,2 - 9,4% vào năm 2022, trước khi giảm xuống 4,0 - 6,5% vào năm 2023.
Trong bối cảnh đó, CPI bình quân 8 tháng đầu năm 2022 của Việt Nam tăng 2,58% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 1,67% của bình quân 8 tháng năm 2021, nhưng thấp hơn mức tăng của bình quân 8 tháng các năm 2018-2020. Trong khi đó, lạm phát ở khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) trong tháng 6/2022 là 8,6%.
"Kết quả này là một thành công trong kiểm soát giá cả của Chính phủ, tạo nền tảng để thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% đã đề ra trong năm 2022", Báo cáo nêu.
Theo TS. Nguyễn Quốc Việt, để chủ động ứng phó với rủi ro lạm phát, với các yếu tố nguy cơ cả từ bên trong và bên ngoài, thời gian qua, Chính phủ đã có những động thái chính sách được đánh giá là khá linh hoạt, phù hợp tình hình hiện tại.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước liên tục sử dụng các biện pháp “bơm - hút” tiền đan xen nhằm kiểm soát thanh khoản thị trường, điều tiết cung tiền, hướng tới thực hiện hai mục tiêu lớn là ổn định mặt bằng lãi suất và giữ ổn định tỷ giá và giá trị đồng VND, qua đó kiểm soát, đối phó với áp lực lạm phát.
Chính sách tiền tệ nói trên kết hợp linh hoạt với các chính sách tài khóa (thực hiện miễn, giảm thuế, phí đối với nhiều nhóm hàng thiết yếu, chiến lược) vừa hỗ trợ tăng trưởng, vừa giúp giảm áp lực lên mặt bằng giá.
Ngoài ra, Chính phủ thực hiện nhiều biện pháp nhằm “hạ nhiệt” giá xăng dầu (sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu, giảm thuế môi trường, dự kiến tiếp tục giảm thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế nhập khẩu xăng dầu) đồng thời sử dụng các biện pháp ổn định giá cả và nguồn cung đối với các mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu khác cũng đã giúp ổn định mặt bằng giá cả.
Đánh giá chung, ông Việt cho rằng, kinh tế Việt Nam đang phục hồi rất tích cực, tuy nhiên, cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn, trong đó thách thức lớn nhất là cân bằng giữa mục tiêu ổn định vĩ mô, ổn định giá cả, kìm chế lạm phát với các mục tiêu duy trì tăng trưởng.
Nếu dự báo cuối năm tình hình lạm phát có thể được kìm chế tốt, thì nên cân nhắc một số động thái nới lỏng hỗ trợ tăng trưởng như nới room tín dụng và đặc biệt triển khai gói hỗ trợ 2% lãi suất theo đúng Nghị quyết của Chính phủ.
TS. Nguyễn Quốc Việt
Tổng hợp tác động của các yếu tố cả trong và ngoài nước, VEPR dự báo lạm phát trong nước năm 2022 sẽ ở mức 3,5-3,8%.
Trên cơ sở đó, VEPR đưa ra 5 nhóm giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát những tháng cuối năm.
Thứ nhất, cần kiên trì thực hiện các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá cả, kìm chế lạm phát...; cân nhắc có chọn lọc các biện pháp chính sách nhằm hỗ trợ các nhóm sản xuất hoặc người lao động gặp khó khăn do giá cả nguyên liệu đầu vào tăng cao.
Thứ hai, Chính phủ vẫn phải linh hoạt và kiên trì các chính sách vừa hỗ trợ kiểm soát lạm phát vừa thúc đẩy tăng trưởng một cách bền vững như các Nghị quyết của Quốc hội đã đặt ra. Với tình hình kiểm soát đã rất khả quan như 8 tháng đầu năm, Việt Nam nên dần dần từng bước triển khai các nhóm giải pháp về chính sách bao gồm cả chính sách về tài khoá và tiền tệ mà đã có thể bị trì hoãn, do dự trong thời gian qua để tiếp tục hỗ trợ trong phục hồi kinh tế và phục hồi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba, Để xây dựng một nền kinh tế tự chủ, tự lực và có khả năng hội nhập thì cần quan tâm và hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, nhất là những hỗ trợ về vốn và tiếp cận thị trường (cả cung và cầu) cũng như tạo cơ chế chính sách để doanh nghiệp tư nhân tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng nhằm phục hồi tăng trưởng đồng thời góp phần ổn định thị trường, kìm chế lạm phát trong thời gian tới.
Thứ tư, khu vực kinh tế đối ngoại, nhất là khối sản xuất vẫn sẽ đóng vai trò chủ công đóng góp vào tăng trưởng kinh tế năm nay. Theo đó, cần tiếp tục quan tâm giải quyết những vướng mắc về môi trường kinh doanh, tháo gỡ khó khăn về thiếu lao động hoặc các yếu tố đứt gãy chuỗi cung ứng là điểm cần lưu ý để hỗ trợ cho khu vực kinh tế đối ngoại và thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong những tháng cuối của năm 2022.
Thứ năm, công tác dự báo và đánh giá chính sách cần làm thường xuyên, và có sự công khai, minh bạch và kịp thời hơn nữa.