Trái cây Việt chưa giành được lợi thế ở thị trường ngoại

Cước phí vận chuyển, đóng gói, chiếu xạ cao là những nguyên nhân đẩy giá thành trái cây của Việt Nam lên cao, khó cạnh tranh tại thị trường ngoại.
Trái cây Việt vẫn kém cạnh tranh so với các đối thủ khác có vị trí địa lý gần hơn và các đối thủ trong khu vực Đông Nam Á về giá, chất lượng, thời gian giao hàng. Trái cây Việt vẫn kém cạnh tranh so với các đối thủ khác có vị trí địa lý gần hơn và các đối thủ trong khu vực Đông Nam Á về giá, chất lượng, thời gian giao hàng.

Kém cạnh tranh về giá

Tháng 5/2018, xuất khẩu rau quả của Việt Nam ước đạt 303,1 triệu USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả đạt được khá khả quan, nhưng Việt Nam vẫn có thể nâng cao con số này trong tương lai, nếu khắc phục được những vướng mắc tồn đọng và giải quyết được bài toán về giá thành.  

Theo ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Vina T&T Group - một doanh nghiệp đóng góp lớn trong lĩnh vực xuất khẩu trái cây, việc phụ thuộc chiếu xạ từ doanh nghiệp độc quyền đã làm gia tăng thời gian và chi phí vận chuyển trái cây, đặc biệt với những lô hàng đòi hỏi phải bảo quản, vận chuyển bằng xe giữ lạnh. 

Bên cạnh đó, giá cước vận chuyển hàng không cũng là gánh nặng cho các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả. Theo tính toán của ông Tùng, chi phí chiếu xạ, đóng gói, vận chuyển máy bay sang thị trường nhập khẩu chiếm trên 50% giá thành rau quả Việt.

Đây cũng là nguyên nhân khiến rau quả Việt, dù chất lượng, nhưng lại không giành được lợi thế khi xuất ra nước ngoài.

Hiện nay, các thị trường xuất khẩu rau quả lớn của Việt Nam gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc; ngoài ra còn có Malaysia, Thái Lan, Liên minh châu Âu (EU)... 

Riêng EU, theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), nhu cầu tiêu thụ rau, quả các loại của thị trường này rất lớn, khoảng 115 - 130 triệu tấn/năm, trái cây khoảng 70-80 triệu tấn/năm và có xu hướng ngày càng tăng.

Giai đoạn 2011-2017, xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào EU mặc dù đã liên tục tăng với tốc độ bình quân đạt 10%/năm, nhưng mới chỉ chiếm khoảng 0,4% tại thị trường này. 

Tương tự, tại Mỹ, đến nay, đã có  6 loại trái cây tươi Việt Nam được xuất khẩu vào Mỹ, song lượng không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 3% thị phần.

Lý giải nguyên nhân trái cây tươi Việt Nam chưa nhiều tại thị trường EU, ông Trần Thanh Hải, Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cho rằng, trái cây Việt vẫn kém cạnh tranh so với các đối thủ khác có vị trí địa lý gần hơn và các đối thủ trong khu vực Đông Nam Á về giá, chất lượng, thời gian giao hàng.

Tìm giải pháp

Theo Bộ Công thương, trước mắt, các doanh nghiệp Việt cần tăng cường quảng bá và tận dụng tốt hơn nữa hình thức giao dịch thương mại điện tử để thúc đẩy tiêu thụ. 

Về dài hạn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Lê Quốc Doanh cho biết, Bộ NN&PTNT sẽ tiếp tục chỉ đạo tổ chức lại sản xuất trên cơ sở rà soát quy hoạch, đánh giá tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, vùng, miền, tiến tới xây dựng cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường.

Bên cạnh đó, Bộ cũng thúc đẩy phát triển các chuỗi giá trị nông sản nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe về hàng rào kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu. 

Được biết, đầu tháng 5 vừa qua, Bộ NN&PTNT đã đồng tổ chức đối thoại hai bên với Australia để cùng đánh giá lại mối quan hệ hợp tác song phương trong lĩnh vực nông nghiệp.

Qua đó, tìm giải pháp tháo gỡ những vướng mắc về chính sách và kỹ thuật nhằm thúc đẩy thương mại nông sản. Việt Nam đã đề nghị Australia đẩy nhanh tiến độ mở cửa thị trường đối với quả chanh leo và tăng lượng nhập khẩu nhãn - mặt hàng đặc sản có chất lượng cao của Việt Nam.

Để nâng cao tính cạnh tranh trong xuất khẩu rau quả vào thị trường EU, Mỹ… theo ông Đinh Văn Hương, Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp xuất khẩu và người sản xuất, để đảm bảo nguyên liệu đạt chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.

Đặc biệt, nên quy hoạch các vùng sản xuất VietGAP và áp dụng thao tác bọc trái, quản lý vùng sản xuất theo mã số...

Ngoài ra, cũng cần nghiên cứu chính sách đầu tư công nghệ xử lý kiểm dịch thực vật, công nghệ bảo quản, chế biến sâu, đáp ứng yêu cầu của các thị trường nhập khẩu.

Đồng thời, nên tính tới chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu đủ năng lực cạnh tranh.

Phương Anh
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục