Tín dụng tăng nhanh và bài toán “nắn dòng”

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Chất lượng tài sản các ngân hàng tiếp tục chịu áp lực trong bối cảnh tăng trưởng cho vay ở mức cao, còn tăng trưởng huy động vốn thấp hơn khoảng 3-4%.
Tăng trưởng tín dụng nền kinh tế 9 tháng đầu năm 2025 đạt 13,4% - mức cao nhất so với cùng kỳ 5 năm trở lại đây Tăng trưởng tín dụng nền kinh tế 9 tháng đầu năm 2025 đạt 13,4% - mức cao nhất so với cùng kỳ 5 năm trở lại đây

Đối mặt áp lực chất lượng tài sản

Tính đến cuối tháng 9/2025, mặt bằng lãi suất huy động phổ biến ở mức 2-3,4%/năm kỳ hạn 1 tháng; 2,3-4,1%/năm kỳ hạn 3 tháng; 4,7-5,6%/năm kỳ hạn 1 năm. Mặc dù vậy, chi phí huy động có xu hướng tăng nhẹ khi một số ngân hàng áp dụng chính sách tặng thêm lãi suất, các hình thức ưu đãi đa dạng trong bối cảnh tín dụng tăng tốc trong quý III và 9 tháng đầu năm. Bên cạnh đó, thanh khoản VND của hệ thống ngân hàng thương mại tiếp tục suy yếu trên diện rộng và ở trạng thái căng thẳng trong phần lớn quý III.

Nguyên nhân được nhận định bởi dòng tiền bị hút mạnh về kênh tiền gửi Kho bạc Nhà nước tại Ngân hàng Nhà nước, khi thu ngân sách tích cực hơn so với chu kỳ thông thường. Số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính) cho thấy, thu ngân sách 9 tháng đầu năm 2025 đạt 1,926 triệu tỷ đồng, tăng 30,5% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, áp lực từ dòng tiền mặt ra ngoài lưu thông cũng có xu hướng tăng so với chu kỳ hàng năm. Trong khi đó, nguồn vốn khả dụng kém dồi dào hơn, khi huy động vốn tăng chậm hơn (đạt 9,74% so với đầu năm) so với tốc độ tăng tín dụng (13,4% so với đầu năm) và nguồn tiền gửi dịch chuyển vào các kênh đầu tư có lợi suất cao hơn như chứng khoán, bất động sản, vàng...

“Các ngân hàng tăng cường huy động tiền gửi để đáp ứng các tỷ lệ an toàn thanh khoản và nhu cầu tín dụng thường tăng cao trong các tháng cuối năm. Dự báo cuối năm 2025, lãi suất huy động cơ bản sẽ ổn định, có thể tăng tại một số thời điểm; lãi suất cho vay duy trì ở mức thấp hỗ trợ tăng trưởng, khiến biên lãi ròng của các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm nhẹ”, TS. Cấn Văn Lực - chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV nhận định.

Đáng chú ý, theo ông Lực, tăng trưởng tín dụng tính đến ngày 29/9/2025 đạt 13,4% so với cuối năm 2024, cao hơn gần 1,5 lần so với cùng kỳ năm trước (9,11%) và là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ 5 năm trở lại đây, khi Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng. Trong đó, lĩnh vực sản xuất - kinh doanh chiếm 78% tổng dư nợ và thương mại - dịch vụ vẫn là nhóm ngành chiếm tỷ trọng vốn tín dụng lớn nhất với gần 70%, tiếp đến là lĩnh vực công nghiệp - xây dựng với gần 24% và nông - lâm - thủy sản là 6,23%. Tuy nhiên, tín dụng bất động sản tăng khá nhanh (khoảng 19% so với đầu năm, trong đó cho vay kinh doanh bất động sản tăng khoảng 24% và nhà đất tăng khoảng 14%), tiềm ẩn rủi ro khi thị trường kém khả quan.

Trong diễn biến có liên quan, tại báo cáo triển vọng vĩ mô quý IV/2025 mới công bố, các chuyên gia Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho biết, tăng trưởng tín dụng bất động sản đã vượt tăng trưởng tín dụng chung trong 7 tháng đầu năm, cho dù mức độ lệch pha chưa cao kỷ lục như giai đoạn 2017-2018. Cụ thể, tăng trưởng tín dụng chung đạt 10,2% so với cuối năm 2024, trong khi tăng trưởng tín dụng bất động sản là 17,1%.

Theo VDSC, ngay trong cơ cấu tăng trưởng tín dụng bất động sản, tăng trưởng tín dụng cho vay kinh doanh bất động sản tăng mạnh hơn tăng trưởng tín dụng cho vay mua nhà ở, điểm này hoàn toàn đối lập so với giai đoạn 2017-2018. Cụ thể, tín dụng cho vay kinh doanh bất động sản tăng 23,7%, còn tín dụng cho vay mua nhà ở chỉ tăng 12,4%. Trong khi đó, tín dụng cho vay kinh doanh bất động sản cũng có sự phân hóa khi tăng trưởng cho vay dành cho các dự án phát triển nhà ở ghi nhận mức tăng vượt trội so với cho vay các hình thức kinh doanh bất động sản khác (tăng 29% so với đầu năm 2024, tính đến cuối tháng 5/2025).

“Tín dụng mở rộng nhanh cùng với tăng trưởng GDP, nhưng không có một sự gia tăng đồng loạt trong tín dụng các ngành. Dòng chảy tín dụng đặc biệt tăng mạnh ở lĩnh vực chứng khoán và bất động sản kinh doanh”, VDSC nhấn mạnh.

Bên cạnh tăng trưởng tín dụng, các kênh tài sản như vàng, bất động sản và chứng khoán đều tăng giá nhanh, trở thành tâm điểm của bức tranh kinh tế năm 2025. Theo VDSC, giá vàng trong nước tăng mạnh do chịu ảnh hưởng từ xu hướng tăng giá toàn cầu và tình trạng thiếu cung nội địa, khiến đây trở thành kênh đầu tư tăng giá mạnh nhất từ đầu năm tới nay. Trong khi đó, sự mất cân đối cung cầu trên thị trường nhà ở, sự đình trệ pháp lý nhiều dự án bất động sản và thay đổi chính sách giá đất trong bối cảnh nới lỏng tiền tệ đã dẫn đến sự tăng giá mạnh của bất động sản.

Và những cảnh báo

Kể cả các ngân hàng có năng lực tín dụng cao thì tỷ lệ bao phủ nợ xấu và tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng cũng giảm, cho thấy bộ đệm chống chịu rủi ro tín dụng đang thu hẹp trước áp lực chất lượng tài sản.

Báo cáo tâm điểm ngành ngân hàng Việt Nam nửa đầu năm 2025 “Từ tăng trưởng đến cải thiện khả năng chống chịu - Năng lực vốn định hình triển vọng ngân hàng Việt Nam” vừa được FiinRatings công bố cho biết, tỷ lệ nợ có vấn đề giảm dần trong giai đoạn năm 2024 - nửa đầu 2025 so với mức đỉnh năm 2023. Nợ xấu (NPL) toàn ngành đạt xấp xỉ 1,9% trong nửa đầu năm 2025 (so với mức 2,2% của cùng kỳ năm 2024). Nợ cần chú ý (SML) toàn ngành giảm còn 1,3% trong nửa đầu năm 2025 (từ mức khoảng 1,9% trong năm 2024), cho thấy số lượng nợ xấu tiềm tàng đang thu hẹp. Trong khi đó, tỷ lệ xóa sổ nợ ròng (net write-off) trên dư nợ bình quân duy trì ổn định ở mức 1,1-1,2% (tương đương mức của năm 2023).

Xu hướng trích lập dự phòng sớm hơn trong chu kỳ tín dụng khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu cho nợ cần chú ý và nợ xấu tăng từ khoảng 46% lên 53% trong giai đoạn nửa đầu năm 2024 đến nửa đầu năm 2025, cho thấy các ngân hàng chủ động trích lập dự phòng sớm hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ bao phủ nợ xấu điều chỉnh lại giảm nhẹ và vẫn thấp hơn mức đỉnh năm 2022, phản ánh việc các ngân hàng đang dựa nhiều hơn vào hoạt động xóa nợ và thu hồi nợ, thay vì chỉ gia tăng trích lập dự phòng. Khi các chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ dần hết hiệu lực, một số khoản vay có thể chuyển thành nợ cần chú ý hoặc nợ xấu. Rủi ro này tập trung cao hơn ở các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ với bộ đệm vốn mỏng hơn.

TS. Cấn Văn Lực cho biết, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 5/2025, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống ngân hàng (không tính 5 ngân hàng đang được kiểm soát đặc biệt) ở mức khoảng 1,8% - thấp hơn mức 1,93% tại thời điểm cuối năm 2024. Nợ xấu của 27 ngân hàng niêm yết tính đến cuối tháng 6/2025 ở mức 1,97% - tuy giảm so với mức 2,2% cuối tháng 3/2025, nhưng tăng nhẹ so với mức 1,9% cuối năm 2024 (quy mô nợ xấu của 27 ngân hàng này ước đạt 267.000 tỷ đồng, tăng 17 % so với cuối năm 2024), trong khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ mức 91% cuối năm 2024 xuống còn 80% cuối tháng 6/2025 cũng cho thấy khả năng bù đắp rủi ro của các ngân hàng đang suy giảm.

Báo cáo của FiinRatings nhận định, tăng trưởng cho vay tiếp tục vượt tăng trưởng huy động, khiến các ngân hàng phải dựa nhiều hơn vào nguồn vốn bán buôn và phát hành trái phiếu. Trái phiếu ngân hàng chiếm 76,3% tổng lượng phát hành trong nửa đầu năm 2025, tương đương 189.700 tỷ đồng. Nói cách khác, sự suy giảm của tỷ lệ tài sản thanh khoản cao/nguồn vốn bán buôn ngắn hạn (BLA/STWF) và tỷ lệ nguồn vốn ổn định (SFR) phản ánh việc tăng trưởng cho vay vượt khả năng huy động vốn ổn định, buộc các ngân hàng phải rút bớt tài sản thanh khoản để hỗ trợ tăng trưởng cho vay. Các chỉ tiêu về vốn và khả năng sinh lời nhìn chung đều suy giảm trên hầu hết các nhóm ngân hàng.

TS. Lê Xuân Nghĩa - chuyên gia kinh tế nhận định: “Kể cả các ngân hàng có năng lực tín dụng cao thì tỷ lệ bao phủ nợ xấu và tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng cũng giảm, cho thấy bộ đệm chống chịu rủi ro tín dụng đang thu hẹp trước áp lực chất lượng tài sản”.

“Cần giảm rủi ro tài chính bằng cách nâng cao tỷ lệ an toàn vốn ngân hàng và tăng cường khung pháp lý giám sát thận trọng cùng biện pháp can thiệp sớm của Ngân hàng Nhà nước”, chuyên gia kinh tế Ngân hàng Thế giới (WB) khuyến nghị.

Nhuệ Mẫn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục