Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 8-15/11: Dầu thô phục hồi, ca cao và cà phê giảm mạnh

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Kết thúc tuần giao dịch từ 8-15/11, thị trường hàng hóa thế giới ghi nhận giá vàng và dầu thô tăng trở lại, qua đó ngắt chuỗi giảm nhiều tuần liên tục trước đó. Ngược lại, giá ca cao và cà phê tiếp tục đi xuống.
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 8-15/11: Dầu thô phục hồi, ca cao và cà phê giảm mạnh

Năng lượng: Giá dầu tăng nhẹ trở lại, khí LNG cũng đi lên

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới tăng khoảng 2% vào phiên chiều thứ Sáu (14/11) do lo ngại về nguồn cung.

Cụ thể, dầu thô Brent tăng 1,24 USD/thùng (+1,97%) lên 64,25 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 1,25 USD (+2,13%, lên 59,94 USD/thùng). Tính cả tuần, giá dầu Brent tăng 0,94% và dầu WTI tăng 0,28%.

Giá dầu Brent và WTI tăng trở lại trong phiên cuối tuần sau khi cả 2 loại dầu này đều giảm khoảng 3% vào thứ Tư, chịu áp lực từ báo cáo của OPEC cho biết nguồn cung dầu toàn cầu sẽ cân bằng với nhu cầu vào năm 2026, đánh dấu một sự thay đổi lớn so với dự báo trước đó về tình trạng thiếu hụt nguồn cung.

Hôm thứ Năm, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) đã báo cáo mức tăng lớn hơn dự kiến của dự trữ dầu thô tại Mỹ trong tuần trước nữa, trong khi dự trữ xăng và sản phẩm chưng cất giảm ít hơn dự kiến.

Dự trữ dầu thô đã tăng 6,4 triệu thùng lên 427,6 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 7/11/2025, EIA cho biết, so với dự đoán tăng 1,96 triệu thùng trong một cuộc thăm dò của Reuters.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 3/2025 nhờ xuất khẩu mạnh hơn và dự báo thời tiết lạnh hơn bình thường trong tháng 12 tới.

Cụ thể, giá LNG giao tháng 12/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 11,3 cent (+2,5%) lên 4,646 USD/mmBtu. Hợp đồng này đã đạt mức cao nhất kể từ ngày 10/3/2025 vào đầu phiên giao dịch.

“Thị trường xuất khẩu LNG đang đóng vai trò là động lực thúc đẩy nhu cầu mạnh mẽ”, Thomas Saal - Phó chủ tịch cấp cao phụ trách giao dịch năng lượng tại StoneX Financial nói.

Lượng khí trung bình vào 8 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên 17,8 bcfd trong tháng 11, tăng từ mức kỷ lục 16,7 bcfd trong tháng 10.

Công ty tài chính LSEG dự báo nhu cầu khí đốt trung bình trên khắp 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng lên 119,2 bcfd trong tuần này từ mức 108,6 bcfd của tuần trước.

Kim loại: Vàng ngắt chuỗi giảm 3 tuần liên tục, đồng giữ được sắc xanh, quặng và thép diến biến trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, trong phiên cuối tuần qua (14/11),giá vàng giao ngay tại Mỹ giảm mạnh trở lại 85,9 USD (-2,06%) xuống 4.085,8 USD/ounce. Tương tự, hợp đồng vàng tương lai giao tháng 12/2025 trên sàn Comex New York cũng mất tới 100,3 USD (-2,39%) về 4.094,2 USD/ounce.

Dù chịu áp lực lớn từ hoạt động bán chốt lời, vàng vẫn trụ vững trên mức hỗ trợ quan trọng 4.000 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá vàng tăng khoảng 2%, song so với mức đỉnh 4.245 USD/ounce thiết lập hôm thứ Năm, giá hiện thấp hơn hơn 3% do lực bán kỹ thuật và tâm lý thận trọng của giới đầu tư.

Một số chuyên gia nhận định, vàng đang hình thành mặt bằng giá mới trên ngưỡng 4.000 USD/ounce, nhưng việc không thể bứt phá qua vùng 4.200 USD/ounce cho thấy thị trường cần thêm thời gian tích lũy. Vàng hiện vẫn nằm trong xu hướng tăng dài hạn, nhưng bị “mắc kẹt” trong vùng đi ngang khi nhà đầu tư lo ngại Fed có thể chưa cắt giảm lãi suất trong tháng tới do thiếu dữ liệu kinh tế chất lượng sau giai đoạn chính phủ Mỹ đóng cửa 43 ngày.

Khảo sát Gold Survey của Kitco News cho thấy, giới chuyên gia Phố Wall chưa đạt được sự thống nhất về xu hướng giá vàng tuần tới. Một bộ phận nhận định vàng có thể tiếp tục điều chỉnh giảm, nhưng cũng xem đây là vùng giá phù hợp để mua vào chiến lược. Trong khi đó, nhà đầu tư cá nhân vẫn kỳ vọng giá vàng sẽ tiếp tục đi lên, dù thị trường vừa trải qua các nhịp điều chỉnh mạnh.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giảm sau khi dữ liệu kinh tế yếu kém từ nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc, làm dấy lên lo ngại về nhu cầu và hy vọng về việc Mỹ tiếp tục cắt giảm lãi suất trong năm nay đã phai nhạt.

Cụ thể, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1% xuống 10.850 USD/tấn trong phiên 14/11, nhưng vẫn tăng khoảng 1,2% trong tuần, sau khi đã vượt mốc 11.000 USD/tấn trong phiên trước đó. Giá đã đạt mức cao nhất mọi thời đại là 11.200 USD/tấn vào ngày 29/10.

Sản lượng nhà máy và doanh số bán lẻ của Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ yếu nhất trong hơn 1 năm vào tháng 10, gây áp lực lên các nhà hoạch định chính sách trong việc cải tổ nền kinh tế trị giá 19.000 tỷ USD dựa vào xuất khẩu.

Trong khi đó, hy vọng về việc Fed cắt giảm lãi suất vào tháng 12 đã mờ nhạt sau khi ngày càng nhiều nhà hoạch định chính sách của Fed phát tín hiệu thận trọng về việc nới lỏng thêm.

Cũng trên sàn LME, đà giảm xuất hiện trên diện rộng: Nhôm giảm 1,4% về 2.855 USD/tấn; kẽm giảm 0,9% về 3.028 USD/tấn; niken giảm 0,8% về 14.860 USD/tấn; thiếc giảm 0,6% về 37.000 USD/tấn; chì giảm 0,1% về 2.076,5 USD/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, kết thúc phiên 14/11, giá thép thanh kỳ hạn tháng 12/2025 trên sàn Thượng Hải (SHFE) giảm 4 CNY (-0,13%) về 3.007 CNY/tấn và giảm 0,5% trong tuần. Các chỉ số thép khác trên sàn này biến động trái chiều: Thép cây tăng 0,43%; thép cuộn cán nóng gần như không đổi; thép dây giảm 1,81%; thép không gỉ giảm 0,76%. Giá than luyện cốc và than cốc (các nguyên liệu sản xuất thép khác) lần lượt giảm 1,77% và 0,98%.

Trên sàn Singapore-SGX, giá quặng sắt cùng kỳ hạn giảm 0,2 USD về 102,59 USD/tấn và giảm 1,3% trong tuần.

Trên sàn Đại Liên (DCE), giá quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2025 tăng 2,5 CNY (+0,32%) lên 788 CNY/tấn và tăng 0,9% trong tuần. Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 được giao dịch nhiều nhất tăng 0,26% lên 772,5 CNY (108,45 USD)/tấn và tăng khoảng 1% trong tuần

Tâm lý thị trường được hỗ trợ bởi dữ liệu nhu cầu tốt hơn dự kiến, với sản lượng gang nóng bình quân ngày - thước đo nhu cầu quặng - tăng 1,1% so với tuần trước nữa, lên mức cao nhất 3 tuần là 2,37 triệu tấn tính đến ngày 13/11/2025, theo dữ liệu từ hãng tư vấn Mysteel.

Thông thường, nhu cầu quặng giảm vào mùa Đông, do các nhà máy thép cắt giảm hoạt động khi tiêu thụ thép suy yếu bởi thời tiết lạnh cản trở các hoạt động xây dựng ngoài trời. Tác động tích cực từ nhu cầu ngắn hạn mạnh mẽ bị bù trừ bởi một loạt dữ liệu cho thấy thị trường bất động sản tiếp tục suy yếu, lĩnh vực tiêu thụ thép lớn nhất.

Giá nhà mới tại Trung Quốc giảm với tốc độ nhanh nhất 1 năm qua trong tháng 10/2025. Các chỉ báo dẫn dắt như đầu tư bất động sản và khởi công xây dựng mới tiếp tục giảm. Ngoài ra, tín dụng mới của các ngân hàng Trung Quốc giảm mạnh trong tháng 10 so với tháng trước đó và thấp hơn kỳ vọng, do thận trọng trước những bất ổn kinh tế và căng thẳng thương mại giữa Bắc Kinh và Washington.

Nông sản: Đều tăng giá

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần 14/11, giá lúa mì kỳ hạn trên sàn Chicago, Mỹ (CBOT) tăng lên 5,39 USD/giạ, nhờ những dấu hiệu nhu cầu mới từ Ai Cập. Người mua nhà nước Mostakbal Misr đã ký hợp đồng nhập khoảng 500.000 tấn lúa mì Biển Đen cho các lô hàng tháng 12/2025 và tháng 1/2026, chủ yếu từ Nga, Bulgaria và Ukraine, đồng thời đang đàm phán thêm các giao dịch tương tự.

Hoạt động mua sắm này được theo dõi sát sao vì Ai Cập là nhà nhập khẩu lúa mì lớn nhất thế giới, cung cấp tín hiệu về nhu cầu toàn cầu. USDA dự báo, Ai Cập sẽ nhập kỷ lục 13 triệu tấn lúa mì trong mùa này, với các giao dịch gần đây đạt khoảng 1 triệu tấn. Trong khi đó, các yếu tố cơ bản toàn cầu vẫn ổn định do nguồn cung dồi dào, triển vọng thu hoạch tại bán cầu nam thuận lợi và mùa gieo trồng mùa đông ở bán cầu bắc diễn ra ổn định.

Giá ngô kỳ hạn tăng lên hơn 4,3 USD/giạ, chạm gần mức cao nhất từ tháng 6/2025, nhờ triển vọng nguồn cung thắt chặt tại Mỹ và nhu cầu xuất khẩu bất thường. Thanh tra xuất khẩu tuần trước đạt khoảng 1,425 triệu tấn, với tổng lô hàng năm vượt 13,7 triệu tấn, phản ánh nhu cầu nhập khẩu mạnh.

Tại Brazil, nông dân bán ra hạn chế, nhu cầu nội địa cho ethanol và thức ăn chăn nuôi ổn định, trong khi rủi ro thời tiết có thể ảnh hưởng đến nguồn cung ngô vụ hai. Các lô hàng xuất khẩu lớn tới Mexico, Colombia và Đài Loan (Trung Quốc) cùng với việc định vị trước báo cáo khiến thị trường dễ phản ứng trước bất kỳ cắt giảm sản lượng nào của Mỹ.

Giá đậu tương kỳ hạn tăng lên hơn 11,2 USD/giạ, đánh dấu mức cao nhất từ tháng 7/2024, khi thị trường chờ đợi báo cáo cập nhật cung cầu toàn cầu của USDA vào thứ Sáu (14/11), lần đầu tiên sau nhiều tuần. Mức tăng bị hạn chế bởi thiếu các giao dịch mua lớn từ Trung Quốc, dù Bắc Kinh gần đây đã mua một lượng nhỏ sản phẩm nông nghiệp Mỹ.

Nhà Trắng cho biết, Trung Quốc cam kết mua 12 triệu tấn trước cuối năm, nhưng các thỏa thuận đậu tương lớn vẫn chưa rõ ràng. COFCO - công ty thương mại nhà nước Trung Quốc, công bố các giao dịch mua hơn 10 triệu USD đậu tương Brazil và các sản phẩm nông nghiệp khác, không bao gồm đậu tương Mỹ. Các nhà đầu tư dự báo năng suất đậu tương Mỹ trong báo cáo sắp tới sẽ đạt 53,1 giạ/acre, thấp hơn dự đoán 53,5 bpa của USDA vào tháng 9.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cà phê, ca cao, bông, dầu cọ giảm; đường đi lên; cao su biến động nhẹ

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua 14/11, thị trường cà phê quốc tiếp tục chìm trong sắc đỏ, dù đà giảm đã chậm lại so với phiên bán tháo trước đó.

Cụ thể, giá cà phê Robusta (London) giảm 23 USD (-0,52%) về 4.343 USD/tấn (kỳ hạn 1/26), mức thấp nhất trong 2 tuần. Cà phê Arabica (New York) cũng giảm 1,95 US cent (-0,47%) về 401,70 US cent/lb.

Đà giảm từ cú sập giá hôm thứ Năm (12/11) chưa dừng lại, thị trường vẫn đang bị áp đảo bởi tin tức về khả năng Mỹ gỡ bỏ thuế quan 50% đối với cà phê Brazil. Tuyên bố của Bộ trưởng Tài chính Mỹ rằng, sẽ có “thông báo quan trọng” trong vài ngày tới tiếp tục thúc đẩy hoạt động bán tháo.

Áp lực giảm giá càng tăng mạnh khi cơ quan StoneX đưa ra dự báo ảm đạm cho mùa vụ 2026-2027 của Brazil, dự đoán sản lượng tăng tới 29%. Tin tức thời tiết cũng không còn hỗ trợ giá, khi vùng Minas Gerais (Brazil) tuần qua đã nhận được lượng mưa 160% mức trung bình, làm dịu đi nỗi lo khô hạn. Thêm vào đó, nguồn cung Robusta từ Việt Nam vẫn rất dồi dào (xuất khẩu 10 tháng tăng 13,4% và dự báo vụ mùa bội thu).

Bất chấp đà giảm, giá cà phê vẫn được hỗ trợ bởi một yếu tố thực tế: Tồn kho quốc tế vẫn ở mức cực kỳ thấp. Tồn kho Arabica đã giảm xuống mức thấp nhất trong 1,75 năm và Robusta cũng ở đáy 3,75 tháng. Tình trạng thiếu hụt này vẫn là hệ quả của việc thuế quan hiện tại vẫn đang áp dụng.

Dự báo xu hướng ngắn hạn là tiêu cực. Các tin tức về thuế quan và dự báo nguồn cung dồi dào đã lấn át hoàn toàn nỗi lo về tồn kho thấp. Thị trường có thể sẽ tiếp tục dò đáy mới.

Giá ca cao kỳ hạn trượt về gần 5.200 USD/tấn, đánh dấu mức thấp nhất kể từ tháng 1/2024 do triển vọng nguồn cung cải thiện rõ rệt ở khu vực Tây Phi. Tại Bờ Biển Ngà, nông hộ ghi nhận tình trạng sinh trưởng thuận lợi, thời tiết khô giúp hạt ca cao khô nhanh, tạo điều kiện tích cực cho vụ thu hoạch kéo dài từ tháng 10/2025 đến tháng 3/2026.

Lượng hàng cập cảng tại nước sản xuất ca cao lớn nhất thế giới này cũng đang tăng dần sau giai đoạn đầu vụ chậm chạp. Ngoài ra, kỳ vọng về gói cắt giảm thuế nông nghiệp mà Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent đề cập đã góp phần gây sức ép lên giá.

Giá đường kỳ hạn ghi nhận mức tăng hơn 2,5% lên 14,8 cent/pound - cao nhất kể từ 24/10/2025. Giá dầu thô tăng làm tăng nhu cầu sản xuất ethanol, khiến nhiều nhà máy ưu tiên chuyển mía sang ethanol, thay vì đường. Đồng real Brazil mạnh lên cũng hỗ trợ đà tăng.

Tuy vậy, bức tranh cung - cầu dài hạn không có nhiều thay đổi, khi thị trường vẫn đối mặt khả năng thặng dư lớn nhờ mùa thu hoạch thuận lợi tại Brazil, Ấn Độ và Thái Lan. Số liệu UNICA cho thấy, sản lượng đường tại Trung Nam Brazil tăng 16,4% lên 2,07 triệu tấn trong nửa cuối tháng 10/2025. Ấn Độ cũng xác nhận cho phép xuất khẩu 1,5 triệu tấn trong niên vụ 2025-2026 nhằm hỗ trợ giá nội địa.

Giá bông kỳ hạn tháng 12/2025 giảm 0,63% về 1.386,71 USD/tấn. Thị trường đang dồn toàn bộ sự chú ý vào báo cáo cung - cầu (WASDE) hàng tháng sắp tới từ Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA). Đây là báo cáo vô cùng quan trọng, cung cấp các ước tính mới nhất về cung cầu trong nước và toàn cầu kể từ tháng 9/2025, sau một thời gian bị trì hoãn.

Tâm lý chờ đợi này được củng cố bởi một khảo sát của Bloomberg trước thềm báo cáo. Cụ thể, đối với niên vụ 2025-2026 của Mỹ, sản lượng bông dự kiến đạt 13,52 triệu kiện, tăng nhẹ so với mức 13,22 triệu kiện trong báo cáo tháng 9. Cùng với đó, xuất khẩu cũng được dự kiến nhích lên 12,08 triệu kiện (so với 12 triệu trước đó) và tồn kho cuối kỳ dự kiến ở mức 3,76 triệu kiện (tăng từ 3,6 triệu kiện).

Trên bình diện toàn cầu cho niên vụ này, sản lượng dự kiến đạt 117,91 triệu kiện, tăng so với con số 117,68 triệu của tháng 9. Tồn kho cuối kỳ được dự đoán tăng nhẹ lên 73,64 triệu kiện (từ 73,14 triệu kiện), trong khi tiêu thụ dự kiến ở mức 118,12 triệu kiện. Những số liệu dự báo này cho thấy tâm lý thận trọng đang bao trùm thị trường bông trước khi có dữ liệu chính thức từ USDA.

Giá dầu cọ Malaysia tiếp tục lùi về dưới mức 4.120 MYR/tấn trong tuần qua, và giảm tuần thứ năm liên tiếp do sản lượng tăng cao và nhu cầu chậm lại tại các thị trường chính.

Sự sụt giảm này diễn ra trong bối cảnh nhu cầu từ các thị trường chính như Ấn Độ và Trung Quốc giảm sút và giá dầu olein Dalian giảm nhẹ, tạo áp lực cho thị trường dầu cọ toàn cầu. Các nhà đầu tư vẫn tỏ ra thận trọng khi thị trường duy trì mức thấp trong bốn tháng và hướng tới tuần giảm thứ năm liên tiếp.

Báo cáo từ Hội đồng Dầu cọ Malaysia cho thấy, sản lượng dầu cọ trong tháng 10 tăng 11,02% so với tháng trước đó, đạt mức cao nhất kể từ tháng 8/2015. Đồng thời, tồn kho cuối tháng 10 đạt mức cao nhất trong 6,5 năm, phản ánh nguồn cung dư thừa trên thị trường. Xu hướng tăng sản lượng kết hợp với nhu cầu chậm lại đang tạo áp lực giảm giá cho dầu cọ.

Indonesia - nước sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới, dự kiến mở rộng 600.000 ha đất trồng mới, đánh dấu lần mở rộng đầu tiên sau khi lệnh cấm trồng kéo dài 4 năm kết thúc. Động thái này được dự báo sẽ tăng nguồn cung dầu cọ toàn cầu trong thời gian tới, gây thêm áp lực giảm giá trên thị trường quốc tế.

Kết thúc tuần qua, tại thị trường Nhật Bản (OSE), hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 12/2025 gần như đi ngang ở mức 321 JPY/kg; hợp đồng cao su giao tháng 4/2026 tăng nhẹ 1 JPY (+0,31%) lên 324,5 JPY (2,15 USD)/kg.

Tại Trung Quốc, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2026 giảm 0,46% xuống 15.215 CNY/tấn. Hợp đồng cao su butadiene giao tháng 1/2026, mặt hàng liên quan trong chuỗi cung ứng lốp xe, tăng nhẹ 0,19% lên 10.445 CNY/tấn.

Tại Thái Lan, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 12/2025 tăng 0,76 Baht (+1,1%) lên 67,29 Baht/kg. Tại Singapore, hợp đồng cao su cùng kỳ hạn trên sàn SICOM giảm 0,4% về 172,3 cent/kg.

Thị trường tiền tệ tiếp tục chi phối diễn biến giá cao su khi đồng USD suy yếu trước kỳ vọng kinh tế Mỹ kém khả quan giúp đồng JPY phục hồi nhẹ, nhưng tỷ giá USD/JPY vẫn quanh mức 154,51 JPY/USD - cận đáy 9 tháng và là ngưỡng hỗ trợ quan trọng cho hàng xuất khẩu Nhật Bản.

Tâm lý giao dịch tại châu Á thận trọng hơn khi chứng khoán khu vực giảm sâu, riêng chỉ số Nikkei mất 1,8%. Cùng lúc, giá dầu thô tăng mạnh sau vụ Ukraine tấn công kho dầu Nga, làm dấy lên lo ngại gián đoạn nguồn cung. Diễn biến này đáng chú ý vì giá dầu tăng kéo chi phí sản xuất cao su tổng hợp lên cao, tác động trực tiếp đến thị trường cao su tự nhiên.

Nguồn cung khu vực cũng đối mặt rủi ro ngắn hạn khi Thái Lan cảnh báo mưa lớn và nguy cơ lũ quét tại miền Nam từ 17-19/11/2025 - vùng sản xuất cao su trọng điểm. Ở chiều tích cực, nhu cầu có tín hiệu cải thiện nhờ ngành ô tô Brazil tăng 7,2% doanh số và 1,8% sản lượng, hỗ trợ triển vọng tiêu thụ lốp xe.

(Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Thời báo Tài chính Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục