Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 5-12/8: Nhiều mặt hàng quay đầu giảm giá, nhưng dầu vẫn đi lên

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch tuần từ 5-12/8, trong khi giá dầu ghi nhận tuần tăng thứ 7 liên tiếp thì nhiều mặt hàng đã có sự điều chỉnh sau thời gian khá dài tăng giá như vàng, bạc, đồng, thép, nông sản…
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 5-12/8: Nhiều mặt hàng quay đầu giảm giá, nhưng dầu vẫn đi lên

Năng lượng: Giá dầu tăng tuần thứ 7 liên tiếp, khí LNG tăng 7,5%

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới tăng vào thứ Sáu (11/8) sau khi Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) dự báo nhu cầu toàn cầu cao kỷ lục và nguồn cung thắt chặt.

Cụ thể, dầu thô Brent tăng 41 US cent (+0,5%) lên 86,81 USD/thùng, trong khi dầu thô Mỹ (WTI) tăng 37 US cent (+0,5%) lên 83,19 USD/thùng. Tính chung cả tuần, cả 2 loại dầu đều tăng khoảng 0,5% - cũng là tuần tăng thứ bảy liên tiếp, chuỗi tăng dài nhất kể từ năm 2022.

IEA đã nâng dự báo nhu cầu dầu mỏ toàn cầu trong năm 2023 lên mức cao kỷ lục. Theo IEA, trong năm 2023, nhu cầu dầu mỏ toàn cầu sẽ tăng thêm 2,2 triệu thùng/ngày lên 102,2 triệu thùng/ngày, trong đó Trung Quốc chiếm 70% mức tăng trưởng này.

Cũng theo IEA, nhu cầu dầu mỏ toàn cầu đang tăng cao kỷ lục do nhu cầu du lịch hàng không tăng mạnh trong mùa Hè, tăng cường sử dụng dầu trong sản xuất điện và hoạt động hóa dầu của Trung Quốc gia tăng.

IEA dự báo nhu cầu dầu mỏ toàn cầu trong năm 2023 sẽ ghi dấu mức hàng năm cao nhất từ trước đến nay. Hồi tháng 2/2023, cơ quan này đã dự báo nhu cầu dầu mỏ sẽ lên mức kỷ lục trong năm 2023 là 101,9 triệu thùng/ngày.

Trong khi đó, việc cắt giảm sản lượng từ Ả Rập Xê-út và Nga khiến cho lượng hàng tồn kho giảm mạnh trong thời gian còn lại của năm 2023, điều mà IEA cho rằng có thể đẩy giá dầu lên cao hơn nữa.

Tuy nhiên, IEA dự đoán nhu cầu dầu mỏ sẽ chậm lại từ năm 2024 khi thế giới nỗ lực chung tay chống biến đổi khí hậu và giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch.

Vào ngày 10/8, Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đưa ra nhận định, nhu cầu dầu toàn cầu sẽ tăng 2,44 triệu thùng/ngày trong năm nay, không thay đổi so với dự báo trước đó. OPEC cho biết, triển vọng thị trường dầu mỏ sẽ khả quan trong nửa cuối năm nay.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ tăng nhẹ vào thứ Sáu (11/8) do hàng tồn kho tăng bù đắp cho thông tin từ thời tiết nóng và nhu cầu tăng cao.

Cụ thể, giá LNG giao tháng 9/2023 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 0,7 cent (+0,3%) lên 2,77 USD/mmBTU, sau khi giảm 6,6% vào thứ Năm (10/8). Cả tuần, hợp đồng này tăng 7,5%.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) đã báo cáo hôm 10/8 rằng, các công ty tiện ích đã bổ sung 29 tỷ feet khối (bcf) khí đốt vào kho lưu trữ trong tuần kết thúc vào ngày 4/8.

Vào năm 2022, khoảng 49% năng lượng của bang đến từ các nhà máy chạy bằng khí đốt, phần lớn còn lại là từ gió (22%), than đá (16%), hạt nhân (8%) và năng lượng mặt trời (4%), theo dữ liệu năng lượng liên bang.

Nhà cung cấp dữ liệu Refinitiv dự báo nhu cầu khí đốt của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 103,0 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) trong tuần này lên 104,5 bcfd vào tuần tới do các nhà máy điện đốt nhiều nhiên liệu hơn và xuất khẩu tăng. Refinitiv cho biết, sản lượng khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ là 101,9 bcfd cho đến nay trong tháng 8, gần bằng mức 101,8 bcfd trong tháng 7.

Lưu lượng khí đốt đến 7 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã giảm từ mức trung bình 12,7 bcfd trong tháng 7 xuống 12,3 bcfd cho đến tháng 8, chủ yếu do cắt giảm tại cơ sở Calcasieu của Venture Global LNG ở Louisiana.

Với sự trở lại của giá khí đốt cao hơn ở châu Á trong năm nay, các nhà phân tích dự báo xuất khẩu LNG của Mỹ sang châu Á sẽ tăng lên. Hiện chỉ 19% - tương đương 2,1 bcfd - xuất khẩu LNG của Mỹ xuất sang châu Á trong nửa đầu năm 2023, trong khi 70% - tương đương 8,0 bcfd - được xuất đến châu Âu.

Kim loại: Giá kim loại quý giảm mạnh; kim loại cơ bản biến động trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng dao động gần mức thấp nhất trong 1 tháng qua và đang hướng tới mức giảm hàng tuần thứ ba liên tiếp, khi USD và lợi suất trái phiếu mạnh lên sau khi dữ liệu cho thấy giá sản xuất của Mỹ tăng trong tháng 7.

Cụ thể, sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 7/7/2023 trong phiên, vàng giao ngay ít thay đổi ở mức 1.913,35 USD/ounce. Vàng thỏi giảm 1,4% trong tuần qua. Giá vàng kỳ hạn của Mỹ chốt phiên giảm 0,1% về 1.946,60 USD/ounce.

USD tăng 0,3% so với các đối thủ và đang trên đà tăng hàng tuần thứ tư liên tiếp khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác. Trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng tăng tuần thứ tư liên tiếp.

Tương tự, trên Sở COMEX, một kim loại quý khác là bạc đánh mất hơn 4% giá trị về mức 22,74 USD/ounce - đánh dấu tuần giảm mạnh nhất trong hơn 1 tháng qua. Giá bạch kim cũng suy yếu với mức giảm 1,5% về 914,6 USD/ounce.

Ở nhóm kim loại cơ bản, giá đồng tại Sàn giao dịch kim loại London (LME) đã đảo ngược mức tăng trước đó do đà giảm của USD chậm lại sau dữ liệu lạm phát của Mỹ và trong bối cảnh hy vọng về các biện pháp kích thích tiếp theo của Trung Quốc vẫn còn.Cụ thể, giá đồng kỳ hạn giao 3 tháng giảm 0,3% xuống 8.370 USD/tấn.

Đồng được sử dụng trong năng lượng và xây dựng, đang hướng tới tuần giảm thứ hai liên tiếp, chịu áp lực bởi sự phục hồi sau đại dịch ở quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu Trung Quốc.

Dữ liệu cho thấy giá tiêu dùng của Mỹ tăng nhẹ trong tháng 7 trong bối cảnh chi phí hàng hóa giảm, một xu hướng có thể thuyết phục Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) giữ nguyên lãi suất vào tháng 9.

Đồng tiền của Mỹ yếu hơn làm cho các hàng hóa được định giá bằng USD trở nên hấp dẫn hơn đối với người mua nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Tương tự, giá kẽm cũng giảm 1,2% xuống 2.450 USD do hàng tồn kho tại các kho hàng đã đăng ký với LME tạm dừng đà giảm trong tháng 8. Dự trữ có bảo hành đã tăng lên mức cao nhất trong ba tuần là 71.525 tấn.

Khoản chiết khấu đối với kẽm kỳ hạn giao ba tháng đã tăng lên mức cao vào đầu tháng 8, một dấu hiệu cho thấy nguồn cung ngắn hạn trong hệ thống sàn giao dịch London bị thắt chặt hơn. Phí bảo hiểm cuối cùng ở mức 27,5 USD/tấn so với 36,5 USD/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 20/2/2023.

Về một số kim loại cơ bản khác trên sàn LME, giá thiếc giảm 1,5% về 26.855 USD/tấn và nikel giảm 0,6% về 20.425 USD/tấn. Ngược lại, giá nhôm tăng 0,3% lên 2.202,5 USD/tấn và chì tăng 0,4% lên 2.135,5 USD/tấn.

Về nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tăng cao được hỗ trợ bởi sản lượng nhà máy thép ở Trung Quốc tăng, cho dù lĩnh vực bất động sản ảm đạm kéo dài và những lo ngại về nhu cầu thép có nguy cơ đẩy giá xuống dưới mức tâm lý 100 USD/tấn.

Cụ thể, giá quặng sắt giao tháng 1/2024 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên Trung Quốc tăng 0,1% lên 725,0 CNY(tương đương 100,29 USD)/tấn.

Trên Sàn giao dịch Singapore, quặng sắt chuẩn giao tháng 9/2023 tăng hơn 0,4% lên 100,7 USD/tấn.

Các nhà phân tích của ANZ cho biết trong một lưu ý rằng, thị trường bất động sản Trung Quốc chưa thể khởi sắc, trong khi các chuyến hàng từ Úc tăng lên, bất chấp mùa xây dựng thấp điểm ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Trong khi đó, lượng hàng tồn kho của 5 mặt hàng thép carbon chính do 184 nhà máy thép Trung Quốc nắm giữ đã tăng cao từ ngày 3-9/8 do nhu cầu thấp, với tổng khối lượng tăng 4% so với tuần trước lên 4,55 triệu tấn.

Hầu hết các tiêu chuẩn thép trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đều giảm. Hợp đồng thép cây được giao dịch nhiều nhất giảm 0,9%; thép cuộn cán nóng giảm 0,9% và thép dây giảm 1%, trong khi thép không gỉ tăng 1,4%.

Giá các nguyên liệu sản xuất thép khác như than cốc Đại Liên và than luyện cốc lần lượt giảm 1,3% và 2%.

Nông sản: Đồng loạt giảm giá

Giá đậu tương, ngô và lúa mì tại Chicago (Mỹ) đều giảm khi thời tiết ngày càng cải thiện, khiến các nhà đầu tư dự đoán rằng điều kiện vụ mùa ở khu vực Trung Tây Hoa Kỳ sẽ được cải thiện.

Cụ thể, giá đậu tương kỳ hạn giảm 10-3/4 cent xuống 13,07-1/2 USD/bushel. Giá ngô giảm 9 cent xuống 4,87-1/4 USD/bushel và lúa mì đóng cửa giảm 11 cent xuống 6,26-3/4 USD/bushel.

Vụ thu hoạch ngô của Mỹ có thể lớn thứ hai trong lịch sử do những cơn mưa trong tháng 7 đã giúp cây trồng vượt qua giai đoạn phát triển quan trọng, bù đắp cho điều kiện khô hạn vào đầu mùa và nhiệt độ nóng bức của mùa hè.

Vụ thu hoạch bội thu sẽ bổ sung vào các kho dự trữ trong nước dự kiến tăng lên do nhu cầu đối với ngô xuất khẩu của Mỹ giảm do vụ thu hoạch ồ ạt ở Brazil, quốc gia dự kiến sẽ vượt Mỹ trở thành nhà cung cấp ngô hàng đầu thế giới.

Nguyên liệu công nghiệp: Đường tăng giá, đi ngược cà phê

Giá đường tiếp tục tăng lên do tâm lý lo ngại nguồn cung toàn cầu thiếu hụt trong mùa 2023-2024. Cụ thể, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 tăng 0,38 cent (+1,6%) lên 24,33 cent/lb và tăng 2,7% trong cả tuần. Đường trắng cùng kỳ hạn tăng 6,1 USD (+0,9%) lên 697,1 USD/tấn.

Đường thô dự kiến kết thúc năm quanh mức hiện tại, nhưng đánh dấu mức tăng mạnh so với cuối tháng 12/2022 khi thị trường toàn cầu dường như ghi nhận năm thứ hai thâm hụt nguồn cung, một cuộc thăm dò của Reuters với 11 thương nhân và nhà phân tích cho thấy.

Các nhà phân tích thị trường đường dự kiến trong niên vụ tới thị trường sẽ thâm hụt toàn cầu lần thứ hai liên tiếp do sản lượng gần kỷ lục từ nhà sản xuất hàng đầu Brazil sẽ không đủ để bù đắp sản lượng giảm ở những nơi khác.

Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 1,95 cent (-1,2%) xuống 1,577 USD/lb. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2023 giảm 17 USD (-0,7%) xuống 2.517 USD/tấn.

Nông dân trồng cà phê Brazil đã bán được 41% vụ mùa 2023/24 vào đầu tháng 8, thấp hơn mức trung bình dài hạn trong giai đoạn này là 46% - Công ty Tư vấn Safras & Mercado cho biết. Thực tế, vụ thu hoạch cà phê arabica ở Brazil đang bước vào giai đoạn cuối cùng với điều kiện khí hậu thuận lợi và dự kiến nguồn cung sắp tới sẽ tăng mạnh.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn)

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn)

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục