Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 4-11/10: Vàng lập đỉnh mới vượt 4.000 USD/ounce, dầu thô tiếp tục giảm mạnh

(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 4-11/10, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến giá vàng tăng tuần thứ 8 liên tục và xác lập đỉnh mới trên 4.000 USD/ounce, bạc cũng ở mức cao lịch sử trên 50 USD/ounce, ngược lại dầu thô và nông sản tiếp tục giảm mạnh…

Năng lượng: Giá dầu tiếp tục giảm mạnh, khí LNG cũng đi xuống

Trên thị trường dầu mỏ, kết thúc tuần qua, giá dầu WTI đã rơi khỏi ngưỡng 60 USD/thùng, dừng ở mốc 58,9 USD/thùng, tương ứng với mức giảm tuần khoảng 3,25%; trong khi dầu Brent cũng giảm 2,79% về 62,73 USD/thùng.

Đà giảm giá dầu thế giới trong tuần qua chủ yếu diễn ra trong 2 phiên cuối tuần, khi giá dầu thô mất tới 5-6% giá trị. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự suy yếu này là tình hình leo thang căng thẳng trong quan hệ thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, kéo giá dầu giảm tới 4% trong phiên giao dịch 10/10.

Cuối tuần trước, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã cảnh báo về khả năng sớm áp dụng mức thuế bổ sung 100% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, sau khi Bắc Kinh ra quyết định siết chặt quản lý xuất khẩu đất hiếm vào ngày 9/10. Diễn biến căng thẳng giữa 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới đã làm gia tăng lo ngại trên thị trường về tác động tiêu cực đối với kinh tế vĩ mô cũng như nhu cầu tiêu thụ năng lượng của cả 2 quốc gia.

Bên cạnh đó, giá dầu thế giới còn chịu áp lực giảm sau khi “chảo lửa” tại Trung Đông đang dần hạ nhiệt. Theo đó, ngày 9/10, Israel và lực lượng Hamas đã đạt được đồng thuận về giai đoạn đầu của kế hoạch hòa bình do Chính phủ Mỹ đề xuất, trong đó bao gồm thỏa thuận ngừng bắn và trao trả con tin, mở ra cơ hội chấm dứt xung đột tại dải Gaza và góp phần tăng cường an ninh, ổn định nguồn cung dầu từ khu vực.

Theo nhận định của Daniel Hynes - chuyên gia phân tích tại Ngân hàng ANZ, thỏa thuận ngừng bắn ở Gaza sẽ đưa sự chú ý của thị trường trở lại vấn đề dư thừa nguồn cung dầu dự báo xuất hiện khi OPEC+ tiến hành dỡ bỏ các biện pháp cắt giảm sản lượng.

Trước đó, vào đầu tuần, tâm điểm thị trường tập trung vào quyết định của OPEC+ về sản lượng dầu tháng 11, được đưa ra sau cuộc họp giữa 8 nước thành viên chủ chốt vào ngày 5/10. Mức tăng sản lượng thêm 137.000 thùng/ngày dù củng cố dự báo về tình trạng dư cung trong phần còn lại của năm 2025, nhưng đã được thị trường dự đoán trước và không tạo áp lực đáng kể lên giá dầu.

Thực tế, giá dầu thô toàn cầu vẫn ghi nhận đà hồi phục giữa bối cảnh leo thang căng thẳng địa chính trị liên quan đến cuộc xung đột Nga - Ukraine. Lo ngại của giới đầu tư về nguy cơ gián đoạn nguồn cung từ quốc gia khai thác dầu lớn thứ hai thế giới không chỉ bắt nguồn từ các cuộc tấn công nhằm vào cơ sở năng lượng, mà còn từ nguy cơ áp đặt các biện pháp trừng phạt bổ sung lên mặt hàng dầu thô Nga.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (NLG) tại Mỹ giảm gần 2% xuống mức thấp nhất trong 1 tuần do lượng dự trữ tăng cao hơn dự báo và sản lượng hàng ngày giảm nhẹ hơn so với dự kiến trước đó. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, các công ty năng lượng đã bơm 80 tỷ feet khối (bcf) khí đốt vào kho trong tuần kết thúc vào ngày 3/10/2025.

Cụ thể, giá LNG kỳ hạn giao tháng 11/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York (NYMEX) giảm 6,4 cent (-1,9%) xuống 3,269 USD/mmBtu - mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 29/9/2025.

Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống còn 106,3 tỷ feet khối mỗi ngày tính đến thời điểm hiện tại trong tháng 10, giảm so với mức 107,4 bcfd trong tháng 9 và mức cao kỷ lục hàng tháng là 108,0 bcfd trong tháng 8.

LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ 100,4 bcfd trong tuần này xuống còn 99,7 bcfd vào tuần tới. Dự báo này cao hơn so với triển vọng của LSEG đưa ra hôm thứ Tư (8/10).

Kim loại: Giá vàng, bạc tăng 8 tuần liên tiếp; quặng sắt và thép cũng đi lên, đồng giảm trở lại từ mức đỉnh 16 tháng

Ở nhóm kim loại quý, tuần qua là một cột mốc đáng nhớ của vàng và bạc khi đồng loạt lập đỉnh lịch sử, lần lượt vượt 4.000 USD/ounce và 50 USD/ounce. Dù lực mua vẫn rất mạnh, nhiều chuyên gia cảnh báo nhà đầu tư nên thận trọng ở vùng giá cao kỷ lục này.

Giá vàng chưa thể duy trì ổn định trên mốc 4.000 USD/ounce, nhưng vẫn tăng tuần thứ 8 liên tiếp. Giá vàng giao ngay chốt ở mức 3.980,7 USD/ounce, tăng hơn 2% so với tuần trước. Từ đầu năm đến nay, giá vàng đã tăng 51%.

Tương tự, bạc cũng ghi nhận tuần tăng thứ 8 liên tiếp, vượt qua đỉnh năm 2011 trên 50 USD/ounce. Dù đã điều chỉnh nhẹ khỏi mức đỉnh trong ngày, giá bạc giao ngay vẫn giữ ở 49,99 USD/ounce, tăng 4% trong tuần và tăng hơn 71% từ đầu năm.

Theo các chuyên gia, đà tăng của bạc đang vượt trội hơn vàng nhờ nhu cầu công nghiệp tăng mạnh, trong khi triển vọng đạt thỏa thuận hòa bình giữa Israel và Hamas đang làm giảm sức hấp dẫn của vàng như tài sản trú ẩn.

Theo giới phân tích, dù tâm lý thị trường vẫn nghiêng về bên mua, nhưng mốc 4.000 USD/ounce với vàng và 50 USD/ounce với bạc có thể là điểm “kiệt sức kỹ thuật”, báo hiệu khả năng điều chỉnh ngắn hạn.

Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho biết, nhu cầu đầu tư vào các quỹ ETF vàng trong quý III đã tăng kỷ lục thêm 221,7 tấn, tương đương gần 26 tỉ USD, đưa lượng nắm giữ lên sát mức đỉnh năm 2020.

Tuần tới, thị trường có thể thiếu dữ liệu kinh tế do Quốc hội Mỹ chưa thông qua gói ngân sách mới, dẫn đến việc chính phủ tiếp tục đóng cửa. Tuy nhiên, giới đầu tư vẫn sẽ theo dõi sát sao dữ liệu từ Cục Dự trữ Liên bang New York và Philadelphia, cùng các phát biểu tại Hội nghị thường niên của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) tại Washington.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng Thượng Hải đã giảm từ mức cao nhất 16 tháng do hoạt động chốt lời và dữ liệu mới cho thấy, lượng hàng tồn kho tại Trung Quốc tăng đã làm lu mờ lo ngại về tình trạng thiếu hụt kim loại này.

Cụ thể, hợp đồng đồng giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 0,16% về 85.900 CNY (12.059,19 USD)/tấn trong phiên 10/10. Tuy nhiên, giá đồng SHFE đã kết thúc tuần lễ ngắn ngủi do kỳ nghỉ lễ với mức tăng 4,38%, được hỗ trợ bởi lo ngại về gián đoạn nguồn cung.

Tương tự, giá đồng kỳ hạn trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,4% xuống 10.823,5 USD/tấn, nhưng kết thúc tuần tăng gần 1%.

Giá giảm do các nhà đầu tư chốt lời, các nhà giao dịch cho biết, giá cao đã làm suy yếu nhu cầu. Vì vậy, các nhà giao dịch đang chốt lời và rời khỏi thị trường vào lúc này.

Tồn kho đồng cũng tăng, gây áp lực lên giá. Theo báo cáo hàng tuần của sàn SHFE được công bố vào chiều thứ Sáu (10/10), lượng đồng dự trữ tại các kho của sàn này đã tăng 15,4%.

Sản lượng đồng từ công ty khai thác quốc doanh Codelco của Chile đã giảm 25% trong tháng 8, theo dữ liệu từ Cochilco - ủy ban đồng của nước này, sau khi một vụ sập mỏ chết người làm giảm sản lượng từ mỏ có lợi nhuận cao nhất của Công ty.

Codelco đang nỗ lực đẩy nhanh quá trình phục hồi kể từ tháng 9, nhưng dữ liệu sản lượng đang làm gia tăng lo ngại về tình trạng thiếu hụt nguồn cung sau khi Freeport tuyên bố tình trạng bất khả kháng tại mỏ Grasberg ở Indonesia.

Cũng trên sàn SHFE, giá nhôm giảm 0,24%; kẽm tăng 0,25%; niken giảm 0,09%; chì tăng 0,44% và thiếc tăng 0,59%.

Còn trên sàn LME, giá nhôm giảm 0,43%; niken giảm 0,56%; thiếc giảm 0,49%; chì tăng 0,74%; kẽm tăng 0,35%.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tăng trong tuần được hỗ trợ bởi kỳ vọng giá thép tăng mạnh và các yếu tố cơ bản của thị trường được cải thiện.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2026 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc tăng 1,02% lên 795 CNY (111,57 USD/tấn) và tăng 1,4% trong tuần. Giá quặng sắt chuẩn tháng 10/2025 (SZZFV5) trên Sàn giao dịch Singapore tăng 0,51% lên 105,45 USD/tấn và tăng 1,36% trong tuần.

BHP được cho là đã đồng ý thanh toán 30% giao dịch quặng giao ngay với Trung Quốc bằng đồng CNY. Tranh chấp về giá quặng sắt giữa Tập đoàn BHP của Úc và Tập đoàn Tài nguyên khoáng sản Trung Quốc (CMRG) có thể kéo dài đến đầu năm 2026.

Bất chấp tranh chấp, công ty khai khoáng Úc này chỉ phải đối mặt với sự gián đoạn tối thiểu trong nguồn cung cho Trung Quốc và đã hoàn thành hầu hết các cam kết trong tháng 11 và 12. Tác động thực sự của các hạn chế của CMRG đối với các lô hàng của BHP có thể chỉ rõ ràng sau khi công ty này bắt đầu bán quặng để giao hàng vào tháng 1/2026 vào tháng tới. Khung thời gian này có thể mang lại cho tập đoàn Úc một số sự linh hoạt trong các cuộc đàm phán.

Đồng thời, BHP đã đồng ý với CMGR cũng như các nhà sản xuất và thương nhân thép Trung Quốc, chuyển sang thanh toán bằng CNY cho 30% giao dịch quặng giao ngay với Trung Quốc, bao gồm cả giá tại các cảng của Trung Quốc. Thỏa thuận này sẽ có hiệu lực vào quý IV/2025. Tuy nhiên, BHP đã quyết định đặt ra một giai đoạn giám sát cho hợp đồng dài hạn năm 2026, hiện tại vẫn sẽ được thanh toán bằng USD.

Vào ngày 9/10, một số lô quặng sắt của BHP đã được đưa ra bán tại Trung Quốc và ít nhất một lô đã được bán cho một thương nhân địa phương. Công ty này đã bán 170.000 tấn cho một thương nhân Trung Quốc vào ngày giao dịch đầu tiên sau kỳ nghỉ lễ Quốc khánh kéo dài một tuần của nước này và số hàng này được thanh toán bằng USD. Cùng ngày, chi nhánh Thượng Hải của CMRG đã chào bán cho các công ty thép 8 lô quặng sắt BHP, tổng cộng 1,14 triệu tấn.

Các nguyên liệu sản xuất thép khác trên sàn DCE đều tăng giá, với than cốc và than mỡ luyện cốc (DCJcv1) lần lượt tăng 1,26% và 1,5%. Hợp đồng thép cây giao tháng 2/2026 trên sàn SHFE tăng 5 CNY lên 3.112 CNY/tấn.

Các chỉ số chuẩn thép trên sàn này hầu hết đều tăng: Giá thép dây (SWRcv1) đi ngang, trong khi thép thanh tăng 0,39%, thép cuộn cán nóng tăng 0,27% và thép không gỉ tăng 0,12%.

Nông sản: Đồng loạt giảm giá

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua 10/10, giá lúa mì tương lai trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) đi xuống do nguồn cung toàn cầu dồi dào và tiến độ thu hoạch nhanh tại nhiều quốc gia.

Cụ thể, hợp đồng lúa mì mềm đỏ mùa Đông giao tháng 12 (WZ25) giảm 10 cent về 4,9805 USD/giạ; lúa mì cứng đỏ mùa Đông tháng 12 tại KC (KWZ25) giảm 6,75 cent về 4,83 USD/giạ; trong khi lúa mì Xuân tháng 12 trên sàn Minneapolis (MWEZ25) giảm 5,25 cent về 5,5175 USD/giạ.

Công ty Tư vấn Sovecon nâng dự báo sản lượng lúa mì Nga năm 2025 lên 87,8 triệu tấn, tăng so với mức 87,2 triệu tấn trước đó, nhờ năng suất cao tại khu vực Siberia. Trong khi FranceAgriMer cho biết, nông dân Pháp đã gieo trồng 5% diện tích lúa mì mềm và 10% diện tích lúa mạch mùa Đông cho vụ thu hoạch mới.

Thị trường chịu áp lực từ triển vọng nguồn cung toàn cầu đạt mức kỷ lục với vụ thu hoạch lớn dự kiến ở Argentina và Úc. Trước đó, giá lúa mì tăng nhẹ khi Nga tấn công cơ sở cảng tại Ukraine và dự báo giảm sản lượng hơn 6% trong vụ tới.

Tương tự, giá ngô CBOT kỳ hạn giảm theo đà của lúa mì trong phiên thứ Sáu (10/10), khi hoạt động thu hoạch tại khu vực Trung Tây Mỹ diễn ra thuận lợi. Cụ thể, hợp đồng ngô tháng 12 (CZ25) giảm 5,25 cent về 4,13 USD/giạ.

Tại Pháp, tiến độ thu hoạch ngô hạt đạt 37%, tăng so với mức 24% của tuần trước, theo báo cáo của FranceAgriMer. Dù năng suất ban đầu tại Mỹ thấp hơn ước tính của USDA, song thời tiết thuận lợi và lượng mưa tích cực ở Brazil đang hạn chế đà phục hồi giá ngô.

Việc báo cáo dự báo tháng của USDA bị trì hoãn do Chính phủ Mỹ tạm thời đóng cửa cũng khiến giới đầu tư thận trọng trong việc đưa ra quyết định.

Giá đậu tương CBOT tương lai cũng giảm mạnh, chịu tác động từ căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang và các biện pháp hạn chế thương mại mới từ Bắc Kinh.

Cụ thể, hợp đồng đậu tương tháng 11 (SX25) giảm 15,05 cent về 10,0675 USD/giạ; bột đậu tương tháng 12 (SMZ25) giảm 1,9 USD về 275 USD/tấn ngắn; dầu đậu tương tháng 12 (BOZ25) giảm 0,97 cent về 49,97 xu/pound.

Phát biểu của Tổng thống Mỹ Donald Trump rằng “không cần gặp Chủ tịch Tập Cận Bình trong 2 tuần tới” cùng kế hoạch tăng thuế nhập khẩu từ Trung Quốc đã làm dấy lên lo ngại mới trên thị trường.

Ngoài ra, việc Trung Quốc mở rộng kiểm soát xuất khẩu đất hiếm và áp phí cảng đối với tàu Mỹ càng làm giảm kỳ vọng về tiến triển trong đàm phán thương mại.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cà phê giảm mạnh, đường lùi nhẹ, ca cao và cao su duy trì đà tăng

Kết thúc tuần qua, giá càphê Arabica và Robusta đồng loạt giảm mạnh khi nguồn cung toàn cầu được cải thiện và kỳ vọng thương mại giữa Mỹ - Brazil khởi sắc.

Cụ thể, giá cà phê Arabica (KC2!) giảm 7,6 cent (-2,1%) về 3.604 USD/pound, do kỳ vọng Mỹ có thể hạ mức thuế 50% với cà phê Brazil nếu hai bên đạt thỏa thuận trong các cuộc đàm phán sắp tới.

Theo Rabobank, mưa thuận lợi tại vùng Arabica Brazil những ngày tới sẽ giúp cải thiện quá trình ra hoa, qua đó tác động giảm lên giá.

Trong khi đó, giá cà phê Robusta (RC2!) giảm 0,3% về 4.472 USD/tấn. Giới thương nhân dự báo Việt Nam - quốc gia xuất khẩu Robusta lớn nhất thế giới, có thể tăng sản lượng 10-15% trong vụ thu hoạch năm nay nhờ thời tiết thuận lợi.

Giá ca cao (C2!) trên sàn ICE London tăng 21 bảng (+0,5%) lên 4.232 bảng/tấn trong phiên cuối tuần, sau khi rơi xuống mức thấp nhất trong hơn 1,5 năm là 4.137 bảng/tấn vào ngày trước đó. Tại New York, giá ca cao (CC2!) giảm 0,6% về 5.992 USD/tấn, sau khi chạm đáy 1 năm là 5.934 USD/tấn trong phiên liền trước.

Rabobank cho biết, lượng mưa tại Tây Phi đã trở lại bình thường, giúp vụ thu hoạch ở Ghana và Cameroon thuận lợi hơn, qua đó cải thiện nguồn cung. Ngoài ra, việc giá thu mua tại trang trại tăng tại Bờ Biển Ngà và Ghana đang khuyến khích nông dân bán hàng, tạo thêm sức ép lên giá.

Ngân hàng Bank of America (BoA) cũng nâng khuyến nghị cổ phiếu của nhà sản xuất sô-cô-la Thụy Sĩ Lindt (LISN) từ “trung lập” lên “mua”, nhờ kỳ vọng lợi nhuận cải thiện khi chi phí ca cao giảm. Trong khi đó, Wells Fargo dự báo giá sô-cô-la tại Mỹ sẽ vẫn ở mức cao trong mùa lễ Halloween năm nay.

Giá đường thô (SB1!) giảm nhẹ 0,03 cent (-0,2%) về 16,26 cent/pound. Trước đó, giá từng rơi xuống mức thấp nhất trong tuần ở mức 16,16 cent/pound. Giá đường trắng (SF1!) gần như đi ngang, giao dịch quanh mức 451,1 USD/tấn.

Nhà sản xuất đường lớn nhất châu Âu Suedzucker (SZU) cho biết, lợi nhuận hoạt động quý gần nhất giảm tới 82%, do thị trường EU suy yếu. Giá đường trung bình tại EU trong tháng 7 chỉ còn 534 euro/tấn, thấp hơn nhiều so với mức 775 euro cùng kỳ năm ngoái, dù khối này đã hạn chế nhập khẩu đường giá rẻ từ Ukraine sau các cuộc biểu tình nông dân.

Bộ Nông nghiệp Trung Quốc vẫn giữ nguyên dự báo nhập khẩu đường niên vụ 2025 - 2026 ở mức 5 triệu tấn.

Thị trường cao su châu Á ghi nhận diễn biến khá tích cực trong tuần qua. Tại Nhật Bản, giá cao su kỳ hạn trên sàn OSE tăng 2,6 JPY (+0,9%) lên 307,6 JPY/kg nhờ tâm lý lạc quan về nhu cầu phục hồi trong ngành ô tô. Ở Trung Quốc, giá cao su tương lai tăng 60 CNY (+0,4%) lên 14.545 CNY/tấn, cho thấy thị trường đang phản ứng tích cực với tín hiệu cải thiện tiêu dùng nội địa.

Tại Thái Lan, giá cao su kỳ hạn tháng 11/2025 đi ngang ở mức 67,09 Baht/kg, phản ánh sự thận trọng của nhà đầu tư trước biến động thời tiết. Tương tự, tại Singapore, hợp đồng cao su TSR20 giao tháng 10/2025 trên sàn SGX giữ nguyên ở mức 170 cent/kg, cho thấy sự ổn định trong giao dịch khu vực.

Theo nhận định của Hiệp hội Các nước sản xuất cao su tự nhiên (ANRPC), giá cao su có khả năng tiếp tục được hỗ trợ trong ngắn hạn do thời tiết thất thường làm chậm tiến độ khai thác tại Đông Nam Á. Bên cạnh đó, nhu cầu gia tăng từ Trung Quốc và Ấn Độ - 2 thị trường ô tô lớn nhất châu Á - được kỳ vọng sẽ tạo lực đẩy giúp giá duy trì ở mức cao trong những tuần tới.

(Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Thời báo Tài chính Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục