Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 23-30/9: Đa phần giảm giá

(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch cuối cùng của tháng 9 (từ 23-30/9), thị trường hàng hóa thế giới ghi nhận sự điều chỉnh nhiều mặt hàng như dầu, vàng, sắt, thép, lúa mì, ngô, ca cao, cà phê…, đà tăng giá duy trì ở một số mặt hàng như nhôm, kẽm, cao su, dầu cọ...
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 23-30/9: Đa phần giảm giá

Năng lượng: Giá dầu tiếp tục điều chỉnh trong tuần, nhưng tăng gần 30% trong quý III

Giá dầu giảm 1% vào thứ Sáu (29/9) do lo ngại kinh tế vĩ mô và nhà đầu tư chốt lời, nhưng đã tăng trong tuần và tăng gần 30% trong quý III/2023 do việc cắt giảm sản lượng của OPEC + làm giảm nguồn cung dầu thô toàn cầu.

Cụ thể, dầu Brent giao tháng 11/2023 giảm 7 cent về 95,31 USD/thùng, nhưng tăng khoảng 2,2% trong tuần và 27% trong quý III. Dầu Brent giao tháng 12/2023 có tính thanh khoản cao hơn giảm 90 cent về 92,2 USD/thùng.

Dầu thô Mỹ (WTI) giảm 92 cent về 90,97 USD, nhưng tăng 1% trong tuần và 29% trong quý III.

Với giá dầu kỳ hạn tiến gần đến mức 100 USD/thùng, nhiều nhà đầu tư đã chốt lời từ đợt phục hồi do những lo ngại về kinh tế vĩ mô đang diễn ra.

Theo một khảo sát của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Dallas, hoạt động dầu khí ở 3 bang sản xuất năng lượng của Mỹ đã tăng lên sau đợt tăng giá mới nhất. Vào tháng 7/2023, sản lượng dầu thô của Mỹ đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 11/2019, theo dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ.

Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes BKR.O cho biết, số giàn khoan dầu và khí đốt của Mỹ - một chỉ báo sớm về sản lượng tương lai, đã giảm 7 giàn xuống 623 giàn trong tuần tính đến ngày 29/9, mức thấp nhất kể từ tháng 2/2022. Tổng số giàn khoan giảm 51 giàn trong quý III, việc cắt giảm đã chậm lại so với mức giảm 81 giàn trong quý II do giá dầu phục hồi khi nguồn cung thắt chặt.

Theo cuộc khảo sát của 42 nhà kinh tế do Reuters tổng hợp hôm thứ Sáu (29/9), giá dầu Brent được dự báo sẽ đạt trung bình 89,85 USD/thùng trong quý IV/2023 và 86,45 USD/thùng vào năm 2024.

Kim loại: Đồng, nhôm, kẽm tăng giá mạnh, ngược chiều với vàng, bạc, quặng sắt, thép

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tiếp tục giảm vào thứ Sáu (29/9), tính chung trong tháng 9 cũng như quý III đều giảm do kỳ vọng Ngân hàng Trung ương Mỹ có thể giữ lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn.

Cụ thể, vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.850,44 USD/ounce - mức thấp nhất trong hơn 6 tháng qua. Giá vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 0,7% xuống 1.866,10 USD/ounce .

Như vậy, giá vàng giảm 4,6% trong tháng 9 và giảm 3,6% trong quý III sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đưa ra quan điểm thắt chặt tiền tệ hơn nữa.

Lãi suất cao hơn làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng, mặt hàng vốn được định giá bằng USD và không mang lại bất kỳ khoản lãi suất nào.

Chỉ số USD và lãi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm trong quý III đều tăng.

Một số kim loại quý khác, trong phiên 29/9, giá bạc giao ngay giảm 1,7% về 22,20 USD/ounce và giảm 2,4% trong quý III; bạch kim giảm 0,3% về 902,14 USD/ounce; palladium giảm 2,1% về1.245,48 USD/ounce .

Ở nhóm kim loại cơ bản, giá nhôm tăng vào thứ Sáu (29/9) do các nhà giao dịch cân nhắc vị thế trước cuối quý III/2023, dữ liệu hàng ngày cho thấy tồn kho trên sàn giao dịch sụt giảm và USD suy yếu.

Cụ thể, giá nhôm kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 2,9% lên 2.343 USD/tấn vào cuối phiên, sau khi có lúc chạm mức 2.355 USD/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 3/5/2023.

Tồn trữ nhôm bảo hành tại các kho đăng ký của sàn LME giảm xuống 173.875 tấn - mức thấp nhất kể từ tháng 8 năm 2022.

Chỉ số USD suy yếu trong phiên này cũng khiến kim loại được định giá bằng USD trở nên hấp dẫn hơn đối với người mua nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Giá những kim loại cơ bản khác trên sàn LME ngày 29/9: Đồng tăng 0,7% lên 8.272 USD/tấn; niken giảm 1,1% về 18.685 USD/tấn; chì giảm 0,9% về 2.175,5 USD/tấn; kẽm tăng 1,1% lên 2.650,5 USD/tấn. Trong khi đó, giá thiếc tăng 5,2% lên 24.000 USD/tấn sau khi chạm mức 23.840 USD/tấn - thấp nhất kể từ ngày 24/5/2023 trong bối cảnh nhu cầu yếu.

Tính chung trong tháng 9, giá đồng, thiếc và nickel giảm, trong khi giá nhôm và kẽm tăng mạnh.

Về nhóm kim loại đen, hợp đồng quặng sắt tháng 1/2024 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc kết phiên giao dịch 29/9 với mức giảm hơn 2,03% về 844,5 CNY (tương đương 115,55 USD/tấn) – thấp nhất kể từ ngày 11/9.

Giá quặng sắt chuẩn tháng 10/2023 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 4,23% xuống 116,05 USD/tấn, cũng là mức thấp nhất kể từ ngày 11/9.

Giá các nguyên liệu sản xuất thép khác cũng giảm, với giá than cốc và than luyện cốc trên DCE lần lượt giảm 0,84% và 0,74%.

Theo Mysteel, giá than giảm bất chấp tất cả các mỏ than ở thành phố Panzhou tạm dừng sản xuất trong một ngày, sau khi 16 người thiệt mạng trong một vụ tai nạn mỏ than hôm Chủ nhật vừa qua.

Giá thép chuẩn trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải giảm do giá nguyên liệu thô và nhu cầu yếu. Cụ thể, giá thép cây giảm 1,51%; thép cuộn giảm 1,09%; thép dây giảm 0,29% và thép không gỉ giảm 0,59%.

Nông sản: Giá lúa mì thấp nhất 3 năm, đậu tương và ngô cũng giảm

Giá lúa mì kỳ hạn trên sàn Chicago giảm mạnh vào thứ Sáu, chạm mức thấp nhất trong 3 năm sau khi dữ liệu của chính phủ Mỹ chốt sản lượng lúa mì cao hơn kỳ vọng của các nhà phân tích.

Giá đậu tương kỳ hạn cũng giảm mạnh do tồn kho của Mỹ cao hơn dự báo và sự sụt giảm của cả 2 mặt hàng này kéo giá ngô giảm theo.

Cụ thể, hợp đồng lúa mì kỳ hạn tương lai giảm 6,4% về 5,41-1/2 USD/bushel và chạm mức thấp nhất kể từ ngày 28/9/2020. Đây là mức giảm điểm phần trăm trong một ngày mạnh nhất kể từ giữa tháng 3/2022, khi thị trường ngũ cốc toàn cầu thoát khỏi làn sóng mua bán hoảng loạn sau khi xảy ra xung đột giữa Nga và Ukraine.

Giá ngô phiên này giảm 2,4% về 4,76-3/4 USD/bushel, đậu tương giảm 25-1/2 cent xuống 12,75 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Đường, cà phê, ca cao giảm giá, đi ngược cao su và dầu cọ

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn trên sàn ICE giảm mạnh vào ngày 29/9 khi thị trường tiếp tục lùi xa khỏi mức cao nhất 12 năm gần đây.

Cụ thể, đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 giảm 0,46 cent (-1,7%) xuống 26,27 cent/lb. Hợp đồng này hết hạn vào cùng ngày với lượng giao hàng kỷ lục 2,87 triệu tấn, thường được coi là tín hiệu giảm giá. Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2023 cũng giảm 10,70 USD (-1,5%) xuống 705,9 USD/tấn.

Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2023 giảm 7 USD (-0,3%) xuống 2.462 USD/tấn. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 1,05 cent (-0,7%) xuống 1,4615 USD/lb.

Xuất khẩu cà phê từ Việt Nam ước tính giảm 7,3% trong 9 tháng đầu năm 2023 so với một năm trước đó, xuống còn 1,27 triệu tấn, tương đương 21,6 triệu bao 60 kg (130 lb), thông tin từ Tổng cục Thống kê cho biết hôm thứ Sáu (29/9).

Giá ca cao kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn London giảm 18 bảng Anh (-0,6%) xuống 2.915 GBP/tấn do lo ngại nhu cầu suy yếu sau khi giá tăng lên mức cao nhất trong 46 năm trong thời gian gần đây.

Ca cao kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn New York cũng giảm 41 USD1(-1,2%) xuống 3.418 USD/tấn. Tuy nhiên, thị trường vẫn được củng cố bởi những lo ngại về dịch bệnh cây trồng ở Tây Phi, khu vực sản xuất ca cao quan trọng nhất thế giới.

Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản tăng vào thứ Sáu (29/9) nhờ triển vọng có thêm biện pháp kích thích kinh tế và số liệu sản xuất ổn định tại Trung Quốc. Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 3/2024 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng 0,8 JPY (+0,3%) lên 235,3 yên (1,58 USD)/kg. Tính chung cả tháng 9, hợp đồng này tăng 9,9% - mức tăng phần trăm cao nhất kể từ tháng 10/2021.

Không có báo giá cao su trên thị trường Thượng Hải. Thị trường tài chính Trung Quốc sẽ đóng cửa từ ngày 29/9 đến ngày 6/10 để nghỉ Tuần lễ Vàng. Giao dịch sẽ tiếp tục vào ngày 9/10/2023.

Giá dầu cọ kỳ hạn của Malaysia đi xuống trong phiên 29/9, đảo ngược mức tăng lúc trưa cùng ngày. Cụ thể, hợp đồng dầu cọ kỳ hạn tháng 12/2023 trên Sàn giao dịch phái sinh Bursa Malaysia giảm 5 ringgit (-0,13%) xuống 3.766 ringgit (802,39 USD)/tấn khi đóng cửa. Tuy nhiên, tính cả tuần giá vẫn tăng 2,31%.

Dầu cọ bị ảnh hưởng bởi biến động giá của các loại dầu liên quan khi tất cả cùng cạnh tranh giành thị phần trên thị trường dầu thực vật toàn cầu.

Nhà sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới Indonesia đã xuất khẩu 3,52 triệu tấn dầu trong tháng 7/2023, bao gồm cả các sản phẩm đã tinh chế, tăng 21,8% so với năm trước. Indonesia cũng ấn định giá tham chiếu dầu cọ thô ở mức 827,37 USD/tấn trong khoảng thời gian từ ngày 1-15/10/2023, tăng từ mức 798,83 USD/tấn của 15 ngày trước đó.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục