Sáu nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững
Ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1393/QÐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh.
Theo đó, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Quyết định số 965/ QÐ-BTNMT ngày 23/4/2015 về Chương trình hành động giai đoạn 2015-2020 và định hướng đến năm 2030 thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, trong đó đưa ra mục tiêu thực hiện tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế, khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên với giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường.
Ths. Nguyễn Văn Hưng, Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên - Môi trường.
Ngày 21/2/2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 27/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 1/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 8/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
Theo chủ trương của Ðảng và Nhà nước, trong thời gian tới, cần phải thực hiện “phát triển nhanh và bền vững”, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Theo đó, 6 nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy nền kinh tế hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đã được đặt ra.
Thứ nhất, thay đổi tư duy phát triển, tăng trưởng kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, bảo vệ môi trường phải được xác định là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển.
Không thu hút đầu tư bằng mọi giá, chú trọng tiêu chí môi trường trong lựa chọn dự án đầu tư. Kiên quyết không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà đánh đổi môi trường. Không cho phép đầu tư các dự án, các loại hình sản xuất ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu, nhất là dự án tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường ở các vùng nhạy cảm.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó trọng tâm là sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật nói chung, bám sát thực tế và theo kịp tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, diễn biến nhanh và mức độ phức tạp của các vấn đề môi trường.
Thể chế hóa kịp thời và tổ chức thực hiện nghiêm các quan điểm, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường; chú trọng nâng cao nhận thức và đề cao trách nhiệm của các cấp, các ngành; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành, giữa Trung ương và địa phương; có các giải pháp phát huy hiệu quả hoạt động của lực lượng cảnh sát môi trường.
Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm tổng thể về kiểm tra, giám sát quản lý môi trường, đồng thời các bộ, ngành, địa phương phải thực hiện đúng trách nhiệm của mình trong công tác bảo vệ môi trường.
Thứ ba, kiểm soát, thu hút có chọn lọc dự án đầu tư. Các dự án đầu tư thuộc loại hình sản xuất công nghiệp có khả năng gây ô nhiễm môi trường cao phải sử dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại, tốt nhất hiện có; hạn chế thu hút đầu tư các dự án thuộc đối tượng kiểm soát đặc biệt bên ngoài các khu công nghiệp; không thực hiện các dự án đầu tư thuộc đối tượng kiểm soát đặc biệt tại những vị trí nhạy cảm về môi trường (trong khu dân cư, trong khu bảo tồn thiên nhiên, đầu nguồn nước phục vụ mục đích sinh hoạt, vùng trũng quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản).
Xem xét kỹ lưỡng các yếu tố về quy mô sản xuất, công nghệ sản xuất và vị trí thực hiện dự án trong mối liên quan với các vấn đề môi trường phát sinh của dự án và mức độ nhạy cảm về môi trường nơi thực hiện dự án trong quá trình xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư; kiên quyết từ chối những dự án sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu, ô nhiễm môi trường.
Thứ tư, tăng cường kiểm soát đối với các dự án đầu tư đã được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; các cơ sở sản xuất đầu tư trong nước và nước ngoài đã đi vào hoạt động thuộc loại hình sản xuất công nghiệp ô nhiễm môi trường cao.
Các cơ quan quản lý môi trường cần sớm lập danh mục các dự án đầu tư thuộc đối tượng kiểm soát chặt chẽ về mặt môi trường đã được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường theo địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và trên phạm vi cả nước.
Rà soát các yêu cầu, quy định, quy chuẩn về bảo vệ môi trường áp dụng đối với dự án; các công trình, biện pháp quản lý, xử lý chất thải; công trình, biện pháp, kế hoạch phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường; chương trình quan trắc và giám sát môi trường trong báo cáo và quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Trường hợp có các bất cập, cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung đảm bảo các yêu cầu, quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường ở mức cao nhất.
Thứ năm, tạo cơ chế đột phá thu hút đầu tư trong và ngoài nước, huy động nguồn lực từ xã hội cho công tác bảo vệ môi trường; cơ chế sử dụng nguồn thu từ môi trường đầu tư trở lại cho công tác bảo vệ môi trường; cơ chế thuế, giá dịch vụ môi trường phải thúc đẩy hoạt động bảo vệ môi trường, thay đổi hành vi theo hướng thân thiện với môi trường.
Thứ sáu, tiếp tục đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các vi phạm. Xử lý dứt điểm các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài, trong đó tập trung thanh tra, giám sát các dự án lớn, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự cố, ô nhiễm môi trường như dệt nhuộm, luyện thép, sản xuất hóa chất; các cơ sở có lưu lượng nước thải từ 200 m3/ngày đêm trở lên; các đối tượng có loại hình sản xuất, công nghệ lạc hậu, nguồn thải lớn, xả thải ra những khu vực nhạy cảm về môi trường như ven biển, lưu vực sông; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, đặc biệt là hành vi xả thải gây ô nhiễm môi trường.
Ban hành tiêu chí đánh giá về môi trường thông qua chính sách tín dụng
Nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng xanh và thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng nhanh và bền vững, thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện nhiều cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và tăng cường quản lý, bảo vệ môi trường.
Trong khuôn khổ hợp tác thúc đẩy tăng trưởng xanh với Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), Bộ Tài nguyên và Môi trường đã giao cho các đơn vị có liên quan và các chuyên gia nghiên cứu, bước đầu đề xuất được tiêu chí đánh giá về môi trường cho dự án xanh và danh mục dự án xanh của Việt Nam; tiêu chí đánh giá về môi trường cho dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường.
Các tiêu chí đánh giá về môi trường này cung cấp các thông tin hữu ích giúp cho chủ đầu tư, tổ chức tín dụng và các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xem xét, đánh giá về môi trường trước khi quyết định đầu tư, cấp tín dụng đối với các dự án đầu tư nhằm bảo đảm an toàn về môi trường và giảm thiểu các rủi ro, tác động tiêu cực đến môi trường.
Trong đó, các tiêu chí để xem xét, đánh giá dự án xanh được xây dựng trên nguyên tắc phù hợp với quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam và tham khảo các tiêu chí dự án xanh mà một số quốc gia, tổ chức tài chính quốc tế, hoặc các tổ chức khác đang áp dụng để bảo đảm tính kế thừa, xu thế hội nhập trong khu vực và thế giới.
Việc xây dựng tiêu chí cho các dự án xanh được thực hiện theo hướng tiếp cận tổng hợp để bảo đảm tính khả thi về cơ sở khoa học, thực tiễn và phù hợp với quy định pháp luật. Ðồng thời, tiêu chí cho các dự án xanh phải bảo đảm đáp ứng mục tiêu trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh của Việt Nam, cụ thể:
(i) phát triển các ngành kinh tế Việt Nam theo hướng sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao;
(ii) ứng dụng các công nghệ tiên tiến để sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu;
(iii) nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường thông qua tạo nhiều việc làm từ các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ xanh.
Ðể đáp ứng những yêu cầu trên và giúp các tổ chức tài chính, tín dụng định hướng nguồn tài trợ cho các dự án nhằm mang lại lợi ích về môi trường, xã hội và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về an toàn lao động, vệ sinh môi trường và điều kiện làm việc cho người lao động theo tiêu chuẩn OHSAS 18001, tiêu chí xem xét dự án xanh đã được xây dựng rất cụ thể, dễ áp dụng và đáp ứng tối thiểu một trong các tiêu chí sau đây:
(i) tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng hiệu quả;
(ii) sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo;
(iii) sử dụng nguyên, vật liệu thân thiện môi trường, hoặc có sản phẩm thân thiện môi trường;
(iv) bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ hệ sinh thái;
(v) sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên;
(vi) thân thiện môi trường;
(vii) thích ứng với biến đổi khí hậu;
(viii) phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm.
Dự án xanh là dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc lĩnh vực, ngành luôn bảo đảm thân thiện môi trường, tiết kiệm tài nguyên, thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, thích ứng biến đổi khí hậu, phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm.
Ngược lại, dự án không được xem xét là dự án xanh là dự án phát điện hoặc vận chuyển sử dụng nguồn nhiên liệu hóa thạch; dự án sử dụng năng lượng hiệu quả các nguồn điện, nhưng làm tăng phát thải khí nhà kính; dự án hoặc các công trình tiết kiệm năng lượng nhằm kéo dài thời gian sử dụng nhiên liệu hóa thạch; dự án chôn lấp chất thải không có hệ thống thu khí thải; dự án lò đốt xử lý chất thải không có hệ thống thu hồi nhiệt năng để tái sử dụng hoặc phát điện; dự án thủy điện không thuộc quy mô nhỏ (các dự án thủy điện có công suất từ 2 MW trở lên).
Việc xây dựng các tiêu chí đánh giá môi trường cho các dự án đầu tư có nguy cơ ô nhiễm môi trường được dựa trên nguyên tắc kế thừa kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc quản lý và kiểm soát các ngành, lĩnh vực có nguy cơ ô nhiễm môi trường.
Ðồng thời, các tiêu chí này cũng được xây dựng dựa trên các bài học kinh nghiệm về một số sự cố môi trường trong thời gian qua.
Việc xây dựng, đề xuất các tiêu chí này phải bảo đảm tính khả thi về cơ sở khoa học và thực tiễn, có thể lượng hóa và kiểm soát được các rủi ro ô nhiễm môi trường, phù hợp với trình độ, năng lực quản lý của Việt Nam.
Do vậy, các tiêu chí lựa chọn để đánh giá môi trường cần phản ánh được công nghệ sản xuất, năng lực quản lý giám sát môi trường, các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường, địa điểm thực hiện của dự án trên cơ sở các tiêu chí về công nghệ và ngành sản xuất; nguyên liệu, nhiên liệu, hóa chất, năng lượng sử dụng; quy mô xả thải và mức độ nhạy cảm môi trường nơi thực hiện dự án; công trình, biện pháp bảo vệ môi trường và phòng ngừa sự cố môi trường; năng lực quản lý, giám sát môi trường.
Áp dụng tiêu chí đánh giá về môi trường đối với dự án xanh, dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường để thực hiện chính sách tín dụng xanh vì phát triển bền vững
Ðể thực hiện được các nhiệm vụ nêu trên, sự tham gia của hệ thống tài chính - ngân hàng là đặc biệt quan trọng.
Theo đó, hệ thống ngân hàng sẽ quyết định nguồn vốn đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các khu vực kinh tế hoạch định nhằm phát triển kinh tế bền vững thông qua hoạt động cấp tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường. Khi áp dụng tiêu chí đánh giá về môi trường đối với dự án đầu tư có nguy cơ ô nhiễm môi trường sẽ được phân loại thành 3 mức độ:
Một là, loại dự án thuộc nhóm có nguy cơ ô nhiễm rất cao. Trong trường hợp này, cần có các biện pháp quản lý rất chặt chẽ thông qua các hoạt động như kiểm tra, giám sát kết quả quan trắc của hệ thống giám sát môi trường tự động, liên tục và báo cáo định kỳ của chủ dự án; xem xét các kết quả thanh tra, kiểm tra môi trường từ cơ quan quản lý môi trường và các cơ quan có liên quan để kịp thời yêu cầu chủ dự án áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa các sự cố rủi ro môi trường có thể xảy ra từ hoạt động của dự án.
Hai là, loại dự án thuộc nhóm có nguy cơ ô nhiễm cao. Trong trường hợp này, cần có các biện pháp quản lý thông qua các hoạt động như kiểm tra, theo dõi kết quả quan trắc của hệ thống giám sát môi trường tự động, liên tục và báo cáo định kỳ của chủ dự án để có biện pháp phối hợp cùng chủ đầu tư có các biện pháp ngăn ngừa các rủi ro, sự cố môi trường từ hoạt động của dự án.
Ba là, loại dự án thuộc nhóm có nguy cơ ô nhiễm trung bình. Theo đó, cần yêu cầu chủ dự án báo cáo định kỳ các kết quả giám sát và quan trắc môi trường để theo dõi, giám sát tình hình tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường của chủ đầu tư.
Như vậy, khi áp dụng tiêu chí đánh giá về môi trường đối với dự án đầu tư, các dự án xanh cần được ưu tiên cấp vốn. Với các dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường, cần xem xét những rủi ro về môi trường của dự án trước khi quyết định cấp vốn, thậm chí có thể từ chối cấp vốn cho những dự án này.
Tóm lại, tín dụng xanh đem lại lợi ích rất lớn cả về tăng trưởng, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững.
Ðiều này có ý nghĩa thiết thực đối với doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư và ngân hàng thương mại thông qua việc phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro đối với các khoản nợ xấu có nguyên nhân từ ô nhiễm môi trường, dẫn đến dự án bi tạm đình chỉ hoạt động, hoặc buộc phải thay đổi công nghệ sản xuất, hoặc phải di dời nhà máy để khắc phục hậu quả.
Mặt khác, tín dụng xanh cũng góp phần quảng bá hình ảnh và danh tiếng của ngân hàng thương mại, nhà đầu tư ở cả trong nước và trên trường quốc tế.
Tiêu chí đánh giá về môi trường của các dự án có nguy cơ ô nhiễm được xây dựng trên cơ sở Nghị định 40/2010/NĐ-CP ngày 13/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường.
Danh mục các loại hình sản xuất được đưa vào xem xét, đánh giá môi trường là 18 loại hình sản xuất. Trong đó, 17 loại hình sản xuất công nghiệp có nguy cơ ô nhiễm môi trường được quy định tại Phụ lục IIa của Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 về sửa đổi bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường, bao gồm: Khai thác, làm giàu quặng khoáng sản độc hại; luyện kim; tinh chế, chế biến khoáng sản độc hại; phá dỡ tàu biển; sản xuất giấy, bột giấy, ván sợi (MDF, HDF); sản xuất hóa chất, phân bón hóa học (trừ loại hình phối trộn); thuốc bảo vệ thực vật hóa học; nhuộm (vải, sợi), giặt mài; thuộc da; lọc hóa dầu; nhiệt điện than, sản xuất than cốc, khí hóa than, điện hạt nhân; xử lý, tái chế chất thải; sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất; có công đoạn xi mạ, làm sạch bề mặt kim loại bằng hóa chất; sản xuất pin, ắc quy; sản xuất clinker; chế biến mủ cao su; chế biến tinh bột sắn; bột ngọt; bia, rượu, cồn công nghiệp; chế biến mía đường; chế biến thủy sản, giết mổ gia súc, gia cầm; sản xuất linh kiện, thiết bị điện, điện tử và bổ sung 1 loại hình là “chăn nuôi gia súc quy mô lớn”.