Quy định rất nhiều, nhưng không rõ
Dự thảo Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (thay thế) vừa được trình Quốc hội xem xét với mục đích hoàn thiện cơ chế, chính sách trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Một trong những vấn đề được nhiều đại biểu quan tâm khi thảo luận tại tổ là quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội phản ánh một số ý kiến cho rằng, khoản 2, Điều 53 của Dự thảo quy định nghĩa vụ của người vận chuyển khi hành khách bị chậm chuyến, hủy chuyến hoặc bị từ chối vận chuyển trong các trường hợp không phải do lỗi của hành khách, do lỗi của người vận chuyển.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay, khi bị chậm chuyến, hành khách chỉ nhận được thông báo “chậm chuyến vì lý do khai thác”. Vì vậy, các ý kiến đề nghị quy định rõ hơn trách nhiệm xác định nguyên nhân chậm chuyến, hủy chuyến do khách quan, do lỗi của người vận chuyển, hoặc giao Chính phủ quy định.
Ngoài ra, có ý kiến cho rằng, quy định “người vận chuyển không phải chịu trách nhiệm nếu thiệt hại xảy ra do lỗi vốn có của hành lý, do chất lượng hoặc nhược điểm của hành lý” tại khoản 1, Điều 64 của Dự thảo còn chung chung và chưa thực sự hợp lý, vì nếu không bảo đảm chất lượng thì phải từ chối vận chuyển. Vì thế, đề nghị quy định cụ thể hơn nội dung này.
Phát biểu tại tổ, Phó chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Thị Thủy nói, Dự thảo đang quy định “2 chiều” về bồi thường thiệt hại. Chiều thứ nhất, người vận chuyển (liên quan các hãng hàng không) phải bồi thường cho hành khách và hàng hóa trong quá trình vận chuyển. Còn chiều thứ hai quy định hành khách phải bồi thường trong trường hợp gây ra thiệt hại cho người vận chuyển (hãng hàng không).
Theo đại biểu Thủy, Dự thảo quy định chiều hành khách phải bồi thường chỉ 1 điều “rất gọn, nhưng rất đầy đủ”. Ngược lại, quy định chiều hãng hàng không phải bồi thường cho hành khách “rất nhiều điều, nhưng không đủ và không rõ”.
Dẫn quy định tại Điều 53, nếu chậm chuyến, hủy chuyến, hoãn chuyến bay, thì bên vận chuyển phải bảo đảm ăn, nghỉ và chịu các chi phí liên quan trực tiếp phù hợp với thời gian phải chờ đợi tại cảng hàng không, đại biểu Thúy cho rằng, sẽ “rất ít người nhận được”.
“Quy định này gần như chỉ để quy định mà thôi, tổ chức triển khai thực hiện trên thực tế chắc rất khó”, Phó chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội nhận xét và đề nghị phải cụ thể hơn để bảo đảm chính sách đi vào cuộc sống.
Đại biểu Nguyễn Thanh Cầm, thành viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội nêu thực tế, rất nhiều hành khách sử dụng dịch vụ hàng không với mức giá vé máy bay không rẻ, song vẫn bị tình trạng hủy, delay. Sau đó, khách hàng chỉ nhận được lời xin lỗi từ hãng bay hoặc cơ trưởng.
“Việc delay, hủy chuyến bay do thời tiết, điều kiện khách quan thì hoàn toàn thông cảm và đồng tình. Nhưng nếu do chủ quan trong quản lý, điều hành, khai thác các chuyến bay, thì phải có cơ chế bồi thường thỏa đáng”, đại biểu Cầm góp ý như vậy và đề nghị, việc bồi thường cho khách hàng cần phải được cụ thể hóa hơn nữa trong dự án luật này.
“Thời gian chậm, trễ chuyến là 1- 2 tiếng, thậm chí nửa ngày, nhưng hành khách chỉ nhận được một lời cáo lỗi, thậm chí còn thông báo sau”, đại biểu Trần Công Phàn (TP.HCM) nêu ý kiến. Ông cho rằng, các hãng bay không thể viện “vì lý do khai thác, máy bay đến chậm”, bởi đây là yếu tố chủ quan, không phải lý do khách quan như mưa bão, thời tiết..., vì thế các hãng vận chuyển phải có cam kết, chịu trách nhiệm đối với hành khách.
Hồi âm ý kiến đại biểu, ông Trần Hồng Minh, Bộ trưởng Bộ Xây dựng (cơ quan chủ trì soạn thảo Dự án luật) cho biết, sân bay Long Thành đang được xây dựng với mục tiêu không chậm giờ, trễ chuyến và thu hút hành khách quốc tế.
Nguyên nhân chậm, hủy chuyến, được Bộ trưởng giải thích là do sân bay chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Vừa rồi sửa Nhà ga T3 Tân Sơn Nhất và T2 Nội Bài, để đạt chuẩn quốc tế, phải có đường băng lên và đường băng xuống, khoảng cách tối thiểu phải 1.350 m.
Với tiêu chuẩn trên, theo Bộ trưởng, “chỉ sân bay Long Thành làm được, nếu sân bay Tân Sơn Nhất làm, thì phải giải phóng đến ngã tư Cộng Hòa, phải đầu tư nguồn lực rất lớn”.
Cần chính sách đột phá để khuyến khích đầu tư tư nhân
Thảo luận tại tổ, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho biết, hiện cả nước có 22 sân bay, gồm 10 sân bay quốc tế và 12 sân bay nội địa, nhưng việc đầu tư còn rất chậm, chỉ khoảng 113.558 tỷ đồng trong giai đoạn 2010-2020. Do đó, Chủ tịch Quốc hội đề nghị, bổ sung trong Dự thảo luật các quy định đột phá để khuyến khích đầu tư tư nhân và mô hình hợp tác công tư, đặc biệt cho các sân bay địa phương và chuyên dụng.
“Hiện nay, Nhà nước vẫn đầu tư chính vào hạ tầng thiết yếu, dẫn đến gánh nặng ngân sách, nên cần có những quy định, cơ chế ưu đãi thuế, đất đai và các thủ tục phê duyệt nhanh cho nhà đầu tư nước ngoài, trong nước; đồng thời đảm bảo bình đẳng giữa các hãng hàng không trong tiếp cận bay và dịch vụ bay”, Chủ tịch Quốc hội nêu ý kiến.
Nội dung tiếp theo được Chủ tịch Quốc hội lưu ý là, cùng với việc giao Chính phủ quy định tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư, cần thêm điều khoản về giám sát để tránh độc quyền.
Dự thảo luật kế thừa quy định, doanh nghiệp khai thác sân bay có quyền đầu tư, nhưng theo Chủ tịch Quốc hội, cần mở rộng để huy động nguồn lực xã hội, nếu không, ngành hàng không khó đạt mục tiêu có 33 sân bay vào năm 2050.
Về vấn đề phân cấp, phân quyền và đơn giản hóa thủ tục hành chính, Chủ tịch Quốc hội cho biết, Dự thảo đã phân cấp từ Thủ tướng, bộ trưởng xuống địa phương, nhưng cần triệt để hơn bằng cách giao quyền phê duyệt quy hoạch chi tiết sân bay cho UBND cấp tỉnh; giảm thời gian xử lý cấp phép bay từ 10 ngày xuống còn 5 ngày…
Theo đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị), Dự thảo đã thể chế hóa tinh thần khuyến khích phát triển công nghiệp hàng không, song nội dung hiện mới dừng lại ở ưu đãi về thuế. Trong khi đó, các nghị quyết của Bộ Chính trị - như Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, đã nhấn mạnh rõ, cần đồng bộ các chính sách về đất đai, vốn, tín dụng, hạ tầng, nhân lực.
Do vậy, đại biểu Đồng đề nghị, cần bổ sung cơ chế ưu đãi tổng thể cho doanh nghiệp đầu tư vào ngành hàng không và công nghiệp phụ trợ, nhất là trong khâu bảo dưỡng, sản xuất linh kiện, đào tạo nhân lực, nghiên cứu ứng dụng công nghệ bay, vật liệu mới. “Nếu làm được điều này, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành trung tâm dịch vụ hàng không khu vực”, ông Đồng nhấn mạnh.
Một sửa đổi đáng chú ý khác là Dự thảo cho phép doanh nghiệp cảng hàng không được chủ động trong việc tổ chức đầu tư xây dựng, nâng cấp, cải tạo, mở rộng cảng hàng không, công trình tại cảng hàng không theo quy hoạch. Cơ quan thẩm tra dự án luật (Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội) bày tỏ tán thành quy định này, để bảo đảm tính kịp thời, đồng bộ, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế và nâng cao hiệu quả khai thác cảng hàng không.
Tuy nhiên, báo cáo thẩm tra phân tích, theo quy định tại khoản 1, Điều 34 của Dự thảo luật, thì doanh nghiệp cảng hàng không vẫn phải thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục để thực hiện dự án đầu tư xây dựng/dự án đầu tư theo quy định (như quyết định hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư (nếu có), cấp giấy phép xây dựng đối với công trình phải có giấy phép...), trong khi cảng hàng không đã có quy hoạch chi tiết. Vì vậy, cơ quan thẩm tra đề nghị nghiên cứu để cắt giảm một số thủ tục đầu tư, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Theo nghị trình, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (thay thế) sẽ được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ mười.
Điều phối giờ đi, đến tại cảng hàng không còn hạn chế
Qua khảo sát thực tế, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội nhận xét, công tác điều phối giờ đi, đến tại cảng hàng không (slot) có nhiều cải thiện, đạt được kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác này vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập như phần mềm slot hiện tại chưa tối ưu, chưa đầy đủ các tính năng đáp ứng được nhu cầu về quản lý, điều phối và giám sát thu hồi slot; năng lực, công cụ hỗ trợ để đánh giá tính chính xác các chỉ số giới hạn, tham số điều phối còn hạn chế... Do đó, Ủy ban đề nghị, cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có liên quan để rà soát, chỉnh lý lại quy định tại Dự thảo luật để bảo đảm phù hợp, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý, phân bổ slot.