Nghị quyết của Quốc hội đã quyết nghị giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng, áp dụng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ quy định tại khoản 3 Điều 9 Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 (còn 8%), trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ sau: viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, sản phẩm kim loại, sản phẩm khai khoáng (trừ than), sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ xăng).
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025 đến hết ngày 31/12/2026.
Theo đó, Quốc hội quyết nghị giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng, áp dụng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế 10%, trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ như: viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, sản phẩm kim loại, sản phẩm khai khoáng (trừ than), sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ xăng).
Trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết trước khi Quốc hội bấm nút biểu quyết, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, một số ý kiến đề nghị áp dụng giảm thuế giá trị gia tăng 2% cho tất cả các mặt hàng. Tuy nhiên, cũng có ý kiến lại đề nghị thay vì giảm 2% cho nhiều đối tượng, nên giảm 4-5% cho đúng đối tượng cần hỗ trợ.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, tại dự thảo Nghị quyết, Chính phủ đề xuất tiếp tục giảm 2% thuế suất thuế đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% (còn 8%), trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ không được giảm.
Dự thảo Nghị quyết lần này mở rộng thêm đối tượng được giảm thuế so với quy định tại các Nghị quyết của Quốc hội trước đây và kéo dài thời gian giảm thuế đến hết năm 2026, theo đó, kinh doanh vận chuyển, logistics, hàng hoá, dịch vụ công nghệ thông tin thuộc đối tượng được giảm thuế.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật về thuế GTGT thì hoạt động dạy học, dạy nghề và dịch vụ y tế thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT nên cũng không cần phải giảm thuế. Bên cạnh đó, đối với các dịch vụ như hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT nên không cần phải giảm thuế GTGT, trong khi đó dịch vụ viễn thông, bất động sản là những ngành có tăng trưởng trong thời gian qua và cũng không thuộc đối tượng được giảm thuế GTGT theo quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15.
Theo tính toán của Chính phủ, dự kiến số giảm thu ngân sách nhà nước (NSNN) trong 6 tháng cuối năm 2025 và cả năm 2026 tương đương khoảng 121,74 nghìn tỷ đồng.
Về ý kiến của đại biểu băn khoăn việc giảm thuế sẽ ảnh hưởng đến dự toán thu và bội chi ngân sách, Chính phủ cho biết, dự kiến chính sách giảm 2% thuế suất thuế GTGT sẽ làm giảm thu NSNN trong 6 tháng cuối năm 2025 khoảng 39,54 nghìn tỷ đồng, năm 2026 giảm khoảng 82,2 nghìn tỷ đồng.
Việc giảm thuế GTGT tác động làm giảm thu NSNN nhưng cũng có tác động kích thích sản xuất, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần tạo thêm nguồn thu cho NSNN (bao gồm khả năng tăng thu từ các sắc thuế khác nhờ hiệu ứng lan tỏa của chính sách giảm thuế GTGT).
Nhằm bù đắp số hụt thu do thực hiện chính sách, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương thực hiện một số giải pháp.
Một là, tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp, chính sách tài khóa theo các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, thúc đẩy các động lực tăng trưởng GDP năm 2025 đạt ít nhất 8% và phấn đấu hai con số trong điều kiện thuận lợi hơn, qua đó tạo thêm nguồn thu cho NSNN.
Hai là, quyết liệt trong công tác thu NSNN, tăng cường quản lý, cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quản lý thuế, nhất là trong các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, thu từ đất, chuyển nhượng bất động sản, hoạt động thương mại điện tử, hoạt động kinh doanh trên nền tảng số; mở rộng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền trong các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ ăn uống, nhà hàng khách sạn theo chuỗi, kinh doanh xăng dầu, vàng... Phấn đấu thu NSNN năm 2025 cao hơn khoảng 10% so với ước thực hiện năm 2024.
Ba là, điều hành chi NSNN chặt chẽ, tăng cường tiết kiệm chi; chủ động sử dụng dự phòng, dự trữ và các nguồn lực hợp pháp khác để chi phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách phát sinh theo quy định, đảm bảo cân đối ngân sách các cấp.