Bài 2: Đất nước có thu nhập cao và vị thế mới trong thế giới
Việt Nam phát triển phú cường không chỉ để giàu mạnh, mà còn để trường tồn, có bản sắc và có vị thế. Đây không chỉ là lựa chọn, mà là sinh mệnh của quốc gia.
Tư tưởng chủ đạo
Phát triển phú cường không phải là cuộc đua tốc độ, mà là hành trình khẳng định bản lĩnh quốc gia. Việt Nam chỉ có thể bứt phá nếu tư duy chiến lược của lãnh đạo đủ tầm - nhân dân có niềm tin và đồng lòng - thể chế đủ linh hoạt và minh bạch để khai thác và phát huy mọi nguồn lực xã hội.
Không phát triển phú cường thì nhất định tụt hậu, thậm chí nguy cơ lệ thuộc, nhưng phát triển nửa vời thì nguy cơ đất nước tự đánh mất mình.
Trong tầm nhìn tới năm 2045, Việt Nam phải trở thành quốc gia phát triển. Theo đó, nền kinh tế độc lập, tự chủ nhưng hội nhập sâu rộng; phát triển bền vững, toàn diện và đồng bộ cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, môi trường, con người và thể chế; có thu nhập cao, nhưng đi đôi với giảm bất bình đẳng và phát triển xã hội công bằng, văn minh song hành với bảo đảm kinh tế với an ninh, quốc phòng.
Phát triển phải đặt trên nền tảng đổi mới tư duy toàn diện, đặc biệt là tư duy phát triển, tư duy chiến lược; lấy dân tộc làm chủ thể, Nhân dân và con người làm gốc: Không phát triển vì chỉ số mà vì chủ quyền, sức mạnh, tương lai dân tộc một cách bền vững.
Các lĩnh vực kinh tế chủ yếu và hướng đột phá phát triển các khu vực kinh tế
Từ yêu cầu và thực lực đất nước, lựa chọn lĩnh vực kinh tế chủ yếu ở tất cả các khu vực kinh tế kiến tạo là trụ cột chiến lược trong phát triển kinh tế Việt Nam nhanh và bền vững.
Kinh tế tri thức - nền tảng của kỷ nguyên mới: Kinh tế tri thức là xu thế tất yếu của nhân loại trong thế kỷ XXI, là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia. Kinh tế tri thức không chỉ là áp dụng công nghệ, mà là sự chuyển hóa tri thức, chất xám thành của cải vật chất, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ, công nghiệp phần mềm, năng lượng mới…
Công nghiệp hóa hiện đại gắn với khoa học công nghệ: Tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng “bứt phá về công nghiệp chế tạo, công nghiệp số”. Ưu tiên phát triển công nghiệp nền tảng (cơ khí hoá, tự động hóa, AI, điện tử, vật liệu mới…). Không có công nghiệp mạnh, Việt Nam không có độc lập kinh tế thực sự. Tất cả đặt trên nền tảng kết cấu hạ tầng hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng số - trục xoay chuyển vận mệnh chiến lược quốc gia.
Nông nghiệp sinh thái - nông nghiệp công nghệ cao: Nông nghiệp vẫn là “trụ đỡ”, nhưng phải được chuyển hóa sang mô hình nông nghiệp giá trị cao, gắn với chế biến sâu, chuỗi cung ứng toàn cầu và thị trường xuất khẩu thế giới. Xây dựng nông dân thế hệ mới song hành với nông thôn sinh thái thông minh.
Kinh tế biển - trục chiến lược quốc gia song hành phát triển biển và an ninh biển: Kinh tế biển là trục sống còn cho phát triển bền vững quốc gia, không chỉ vì bảo vệ tài nguyên, mà còn vì vị trí địa chính trị và an ninh quốc phòng. Kiến tạo chiến lược phát triển các cảng biển thông minh, dịch vụ logistics toàn cầu, khai thác biển bền vững, đảo xanh tự chủ.
Các lĩnh vực trên không chỉ mang tính chiến lược, mà còn tạo xung lực trực tiếp và mạnh mẽ bảo đảm sự liên thông giữa các khu vực kinh tế và độ mở của nền kinh tế chỉnh thể đất nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò dẫn dắt - kinh tế tư nhân giữ vai trò động lực quan trọng nhất - kinh tế các khu vực khác giữ vai trò động lực quan trọng hợp thành hệ chủ thể của nền kinh tế Việt Nam.
Phương hướng đột phá phát triển
Tương lai nhất định không thể được xác định bởi quá khứ. Không có tư duy mới thì không thể có nền kinh tế mới. Không có thể chế phù hợp thì không có phát triển bền vững. Không có con người thực sự khai phóng thì không thể bước vào kỷ nguyên số và nâng tầm xứng đáng nền kinh tế Việt Nam.
Tương lai nhất định không thể được xác định bởi quá khứ. Không có tư duy mới thì không thể có nền kinh tế mới. Không có thể chế phù hợp thì không có phát triển bền vững. Không có con người thực sự khai phóng thì không thể bước vào kỷ nguyên số và nâng tầm xứng đáng nền kinh tế Việt Nam.
Đột phá về thể chế phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Thể chế là đột phá của mọi đột phá. Thể chế phải bảo đảm kiến tạo điều kiện pháp lý, xã hội và môi trường chuyển hóa tư duy “quản lý” sang tư duy “phục vụ và kiến tạo” của Nhà nước. Một thể chế minh bạch, hiện đại, giải phóng sức dân - sức nước - sức doanh nghiệp là yếu tố quyết định tạo nên sinh thái nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và bền vững mà chúng ta nhất định phải nắm lấy và phát triển.
Đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam không thể bước vào nền kinh tế tri thức nếu không làm cuộc cách mạng giáo dục thực chất, đổi mới đào tạo và sử dụng nhân tài. Phát triển nhân lực có tri thức, bản lĩnh văn hóa, kỹ năng toàn cầu, nhất là trong các ngành công nghệ mũi nhọn, khoa học ứng dụng mang tầm quốc tế.
Đột phá về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải lấy đổi mới sáng tạo làm hàm lượng chính của tăng trưởng GDP, vượt qua mô hình tăng trưởng dựa vào tài nguyên, nhân công giá rẻ. Chuyển đổi số không chỉ là công cụ mà là hướng tới và bảo đảm chuyển đổi thành công mô hình phát triển, từ điều hành của Chính phủ đến phương cách người dân sản xuất và sinh sống.
Đột phá từ động lực quốc gia - khơi dậy khát vọng dân tộc. Khát vọng phát triển đất nước hùng cường phải là động lực nội sinh lớn nhất. Cần kiến tạo đồng bộ tâm thế quốc gia và tâm lý quốc dân, văn hóa đổi mới và năng lực hành động từ mỗi người dân, doanh nghiệp đến đội ngũ cán bộ chiến lược. Muốn định vị chiến lược quốc gia xứng đáng, Việt Nam phải tự mình trở nên hùng mạnh từ trong khát vọng của Nhân dân và danh dự quốc gia.
Đột phá về kết cấu hạ tầng. Đây là hệ thống huyết mạch quốc gia từ đường bộ, đường thủy tới đường sắt, hàng không; từ cầu cảng tới hệ thống sân bay; từ không gian vùng lãnh thổ tới không gian kinh tế - xã hội; từ không gian văn hoá tới không gian kinh tế quốc gia… Không có hệ thống kết cấu hạ tầng tương xứng, nền kinh tế - xã hội đất nước không thể “cất cánh” như mong đợi. Tất cả định vị và phát triển thống nhất một cách đa dạng trong không gian mở kinh tế - xã hội đất nước tương dung với chuỗi giá trị và cung ứng toàn cầu. Và, phải được hoạch định một cách tổng thể, mang tầm chiến lược và khả thi về kinh tế với chính trị, kinh tế với an ninh, quốc phòng...
Tất cả phải hướng tới đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa nền kinh tế - kinh tế tuần hoàn - kinh tế tri thức - đổi mới sáng tạo và nhân văn.
Thể chế phát triển và cơ chế vận hành
Không thể có phát triển bền vững nếu không có một thể chế tốt, hiện đại, khai phóng và kiểm soát quyền lực hiệu quả. Do đó, nắm chắc tinh thần chủ đạo Kiến tạo - Liêm chính - Hiệu lực - Hiệu quả - Đồng bộ - Minh bạch trong đổi mới kiến tạo thể chế kinh tế. Triển khai đồng bộ các vấn đề cốt lõi trong kiến tạo và phát triển thể chế: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải thực chất, vận hành đầy đủ các quy luật kinh tế thị trường; đổi mới đồng bộ thể chế chính trị - kinh tế - văn hóa - pháp lý để tạo môi trường tổng thể phát triển đúng hướng và thuận lợi; tăng cường pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính, giảm thủ tục, nâng cao chất lượng công vụ và cán bộ.
Việc kiến tạo thể chế bảo đảm tính thống nhất, tính chỉnh thể, tính khả thi, tính không mâu thuẫn hệ thống, tính đồng hành và tính tự phát triển của thể chế trên nền tảng hợp quy luật - hợp lòng dân - hợp với điều kiện thực thi. Đồng thời, cảnh giới, phòng ngừa và ngăn chặn những thủ đoạn tham nhũng thể chế, cô lập thể chế, pha loãng thể chế… biến phát triển thành phản phát triển, làm tổn hại chính trị và làm rối ren nền kinh tế. Chỉ có như vậy, thể chế mới thực sự trở thành động lực phát triển và bảo đảm niềm tin chiến lược của các chủ thể và khách thể kinh tế trong và ngoài nước, bảo đảm sự cân bằng chiến lược trong sự phát triển.
Công việc tổng thể và bao trùm là, với tầm nhìn chiến lược, đổi mới cơ chế vận hành nền kinh tế đúng hướng, đồng bộ và thống nhất, bao hàm các phương diện chủ yếu là hoàn thiện thể chế, cải cách bộ máy hành chính, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch và ổn định để phát triển kinh tế nhà nước xứng đáng với vai trò dẫn dắt nền kinh tế song hành với phát triển tư nhân trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, nắm lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo - nhân tố động lực của lực lượng sản xuất hiện đại đi tiên phong thúc đẩy tốc độ tăng trưởng, môi trường tạo việc làm; triển khai đồng bộ, hiệu quả xây dựng Nhà nước kiến tạo, quản trị nhằm tạo môi trường phát triển quy mô và năng lực cạnh tranh với hệ chính sách phát triển phù hợp với tốc độ cao, bản lĩnh, bền vững và nhân văn, phù hợp với môi trường toàn cầu và hệ giá trị kinh tế thế giới.
Việc phát triển đồng bộ và hiệu quả các trụ cột trên sẽ giúp Việt Nam hướng tới sự cân bằng chiến lược trên nền tảng niềm tin chiến lược bằng hành động độc lập sáng tạo và phù hợp, nhằm thực thi mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế quốc gia bền vững và nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
(Còn tiếp)