Nhận diện gian lận trong báo cáo tài chính Kỳ 1: Những dấu hiệu chung

(ĐTCK) Báo cáo tài chính tự lập của không ít doanh nghiệp có chất lượng không cao. Nhận diện sớm các dấu hiệu gian lận, “làm đẹp” báo cáo sẽ giúp hạn chế rủi ro khi đầu tư cổ phiếu.
Chuẩn mực kiểm toán số 240 yêu cầu kiểm toán viên phải đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính. Chuẩn mực kiểm toán số 240 yêu cầu kiểm toán viên phải đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính.

Kỳ 1: Những dấu hiệu chung

Ba động cơ chính

Khi nói về đầu tư thì không thể không nhắc tới kế toán, là ngôn ngữ của kinh doanh, có thể gọi là đoạn tóm tắt một phần những gì ban lãnh đạo doanh nghiệp muốn truyền tải tới nhà đầu tư.

Kế toán hoạt động trên nguyên tắc dồn tích, cẩn trọng và phù hợp, do đó có thể biểu hiện ý chí của ban lãnh đạo về các giao dịch kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp, có những giao dịch phù hợp với thời điểm phát sinh, tuy nhiên có những giao dịch lại có tính chủ quan cao nhằm đạt được lợi ích của một nhóm liên quan. Nhà đầu tư cần đánh giá được tính hợp lý một cách tương đối, cũng như mức độ nghiêm trọng của các bút toán này.

Nhìn chung, các hoạt động của “kế toán sáng tạo” có thể chia thành ba động cơ chính:

Một là, quản lý lợi nhuận. Đây là hoạt động có chủ ý nhằm tạo ra lợi nhuận theo kế hoạch đã đặt ra của cấp quản lý. Một số nhà quản lý mới với trách nhiệm thúc đẩy hoạt động kinh doanh tăng trưởng đã có chủ ý làm giảm lợi nhuận năm tài chính xuống thấp để lợi nhuận các năm sau tăng trưởng, cắt đứt đà giảm.

Hai là, làm mềm lợi nhuận, để tránh những lên xuống bất thường của lợi nhuận, làm giảm những năm có thu nhập quá cao nhằm tạo ra bức tranh kinh doanh ổn định hơn.

Ba là, gian lận báo cáo, tức có sai sót trọng yếu nhằm gian lận, đánh lừa người sử dụng báo cáo tài chính.

Một số hành vi cần chú ý

Dưới đây là một số hành vi được sắp xếp theo mức độ nghiêm trọng dần:

Thứ nhất, kéo dài thời gian khấu hao cho tài sản cố định nhằm giảm chi phí không bằng tiền này, giúp công ty ghi nhận lợi nhuận đỡ xấu hơn trong giai đoạn khó khăn. Hành vi đó không bị đánh giá ở mức nghiêm trọng khi công ty công bố thông tin đầy đủ. Thực tế, trong giai đoạn lợi nhuận tăng trưởng tốt, công ty có thể thay đổi phương pháp trích khấu hao nhanh để giảm phần thuế thu nhập phải nộp.

Chính sách này đặc biệt được các công ty có hệ số tổng tài sản/lợi nhuận cao sử dụng như vật liệu xây dựng, vận tải hàng không…, những ngành thâm dụng vốn này thường xuyên cần giữ lại một lượng lớn lợi nhuận để tái đầu tư.

Thông thường, các tài sản sẽ có giá trị sử dụng dài hơn thời gian thời gian khấu hao trên lý thuyết, nên chính sách này nhìn dài hạn sẽ không tác động lớn tới giá trị thực nhận của cổ đông, miễn là nó minh bạch.

Thứ hai, không ghi nhận dự phòng giảm giá tồn kho, hàng đã giao tới cho khách hàng bị trả lại nhưng không ghi nhận dự phòng hàng bán bị trả lại. Đối với một số ngành nghề có vòng quay rất lớn, hàng hóa để lâu dễ hư hỏng và giảm giá trị, chất lượng và biến động giá đầu vào lớn như thủy sản, nông sản, thực phẩm... Sẽ khó để tìm thấy sự khách quan nếu trên bảng cân đối kế toán chưa từng có một khoản trích lập nào cho hàng tồn kho.

Thứ ba, vốn hóa chi phí lãi vay và chi phí sửa chữa lớn sau thời điểm tài sản đã hình thành, đồng thời chi phí sửa chữa đó là nhằm mục đích khắc phục những sự cố xảy ra.

Hành vi này nếu chấm thang điểm 100% thì mức độ nghiêm trọng sẽ khoảng 50%, vì có thể gây hiểu lầm cho người đọc báo cáo tài chính, bởi những khoản vốn hóa đó sẽ không được ghi nhận một lần, mà kéo dài ra theo chính sách khấu hao.

Các chi phí sửa chữa, bảo hành sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu ghi nhận rất lớn nhưng trên thực tế phát sinh chi phí rất nhỏ, là sự thông đồng của doanh nghiệp với bên sửa chữa.

Thứ tư, bán chịu nhiều vào thời điểm cuối năm để ghi nhận doanh thu, hành vi này trong ngắn hạn có thể không gây tác động lớn nhưng kéo dài có thể ảnh hưởng tới chất lượng các khoản phải thu. Hay bán chịu cho các khách hàng không có lịch sử tín dụng tốt tại một thị trường hoàn toàn mới với các điều khoản thanh toán không chặt chẽ.

Thứ năm, đẩy mạnh chi phí bán hàng, quảng cáo cho quý cuối năm nhằm làm giảm lợi nhuận mục tiêu, dồn lợi nhuận cho năm sau. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng phương pháp này, bằng cách ghi nhận một khoản chi phí phải trả ngắn hạn, từng kỳ trích vào báo cáo lãi lỗ thông qua các chi phí bằng tiền khác và cuối kỳ lại hạch toán chuyển vào chi phí quảng cáo trong kỳ. Nhà đầu tư không thể biết được các khoản chi phí đột biến này nếu không có chứng từ đối chiếu như hợp đồng, hóa đơn, phiếu nhập kho và biên bản nghiệm thu. 

Các hành vi nghiêm trọng khác liên quan đến doanh thu

Các hành vi có tính gian lận nghiêm trọng chủ yếu tới từ việc ghi nhận doanh thu không đúng với bản chất và thời điểm phát sinh.

Một, công ty nhận được đơn đặt hàng và ghi nhận luôn doanh thu để tăng doanh số mặc dù chưa chuyển giao hàng hóa, cũng có trường hợp chuyển trước hàng cho khách hàng mặc dù chưa nhận được đơn đặt hàng.

Hai, doanh thu được ghi nhận khi vẫn còn tranh chấp với khách hàng hoặc các thành viên trong tập đoàn. Điều này khá khó hiểu và không nằm trong tầm kiểm soát, cổ đông nhỏ lẻ có thể đặt câu hỏi cho ban lãnh đạo công ty thông qua bộ phận quan hệ nhà đầu tư.

Ba, ghi nhận toàn bộ doanh thu khi mới chuyển giao một phần hàng hóa, dịch vụ thể hiện ý chí của ban lãnh đạo, một số công ty trong ngành xây dựng đã làm công việc này bằng cách ước lượng doanh thu theo tiến độ kế hoạch, sau đó ghi nhận trước mà chưa cần xác nhận của chủ đầu tư. Mâu thuẫn xảy ra khi có sai khác trong ước lượng và giá trị thực tế trên hóa đơn, làm bảng cân đối kế toán “xấu đi” khi những khoản dự phòng ngày càng lớn chỉ vì muốn ghi nhận doanh thu sớm.

Bốn, ghi nhận doanh thu chủ yếu khi bán hàng cho các bên liên quan được lập ra với mục đích đặc biệt, hàng hóa, dịch vụ không được chuyển tới người tiêu dùng cuối cùng.

Năm, ghi nhận doanh thu với các đơn hàng kỳ vọng, hành vi này được xếp vào dạng ảo và hư cấu. Công ty bán hàng qua đại lý thường ước lượng khối lượng hàng hóa sẽ bán trong “tương lai” dù chưa rõ nhu cầu thực và khả năng hàng bán sẽ bị trả lại.

Sáu, tài sản lưu động nằm trong mối quan hệ mật thiết với doanh thu rất dễ gây ra sai sót và chuyển đổi hình thái cho nhau, như việc ghi nhận sai giá trị của hàng tồn kho, khoản phải thu cần được xem xét trong nhiều kỳ kế toán.

Doanh nghiệp hoàn toàn có thể đi vay vốn lưu động tài trợ cho những lô hàng không có thật, vai trò của người kiểm toán trong trường hợp này là rất quan trọng trong phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho đủ và đúng nhất, đánh giá sai hàng tồn kho gây tác động lên giá vốn hàng bán và làm cho tổng tài sản có vẻ tăng thêm, dẫn tới hiểu lầm về quy mô công ty.

Doanh thu ảo có thể phát hiện thông qua mối tương quan với các khoản phải thu về kỳ thu tiền bình quân, xem xét trong quá khứ và tính biến động trong ngành nghề kinh doanh cũng là một cách giảm trừ bớt những khoản doanh thu ảo này.

Bảy, các khoản nợ, chi phí phải trả, phải nhà cung cấp có thể ghi nhận sai trong mối tương quan với giá vốn hàng bán, giúp lợi nhuận tăng lên.

Điểm yếu của bảng cân đối kế toán là tính thời điểm, trước thời gian chốt báo cáo tài chính, một số giao dịch có thể xử lý nhanh giúp số liệu đẹp hơn như giảm dư nợ vay bằng các hợp đồng repo nhằm giảm nợ vay, tăng tiền mặt.

Đây là trường hợp đã xảy ra tại Lehman Brothers (Mỹ). Tại Việt Nam từng xảy ra các trường hợp tương tự như vậy khi tiền trên bảng cân đối thực chất lại không phải tiền của công ty, mà đó là khoản chi phí nhiều năm tích lũy nhưng không được ghi nhận, cuối cùng được dồn lại trong một năm dưới dạng một khoản cho vay bên liên quan được trích lập toàn bộ.

Tám, ở khía cạnh dòng tiền, công ty có thể làm đẹp dòng tiền hoạt động kinh doanh bằng cách ghi nhận những chi phí sai hình thức, ví dụ chi cho hoạt động kinh doanh nhưng lại phân loại thành chi phí đầu tư, làm nhà đầu tư có cảm giác công ty luôn có dòng tiền mặt dồi dào, tài chính mạnh.

Hoặc ngược lại, việc vốn hóa sai bản chất khiến dòng tiền ra của hoạt động kinh doanh biến thành dòng tiền ra của hoạt động đầu tư, báo cáo tài chính cũng trở nên đẹp hơn, dòng tiền tài chính vay từ các cá nhân liên quan lại được phân loại vào tiền thu từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền trả nợ cho các cá nhân này phân loại vào dòng tiền đầu tư.

Một số công ty có mối quan hệ bán hàng qua đại lý có thể cho các đại lý mượn tiền để mua hàng hóa từ công ty, dòng tiền thu vào bán hàng hóa được phân loại là tiền từ hoạt động kinh doanh, trong khi dòng tiền cho vay ra lại được đưa vào dòng tiền đầu tư.

Để phát hiện sai phạm này cần xem xét thêm dòng tiền tự do của công ty, dòng tiền hoạt động kinh doanh không đủ để chi trả cho hoạt động đầu tư và tài chính trong nhiều năm cũng có thể là một trong những dấu hiệu sai phạm trong phân loại dòng tiền kéo dài, hoặc ít nhất là công ty hoạt động không hiệu quả.

“Cây kim trong bọc lâu ngày cũng sẽ lòi ra”, không điều gì tiêu cực có thể che giấu mãi. Tuy nhiên, các thủ thuật thì nhiều, trong khi trình độ của các nhà đầu tư cá nhân, thậm chí một bộ phận kiểm toán viên là có giới hạn, còn động cơ, lợi ích của ban lãnh đạo lại rất đa dạng khi lợi ích ngắn hạn từ thị trường tăng nhanh hơn lợi nhuận tạo ra từ hoạt động kinh doanh, khiến ban lãnh đạo khó tránh khỏi sự cám dỗ này. Đây cũng chính là một trong những lý do nhà đầu tư thường được khuyến nghị mua cổ phiếu của công ty tốt tại mức giá cao sẽ tốt hơn là làm ngược lại.

Kỳ 2: Những câu chuyện cụ thể trên TTCK Việt

Nguyễn Đại Hiệp - Email: hiep.buh@gmail.com

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục