50 tỷ USD tiền thuế quan hàng tháng
Cho đến lúc này, giới phân tích nhận định rằng có thể tạm chia các nước thành 4 nhóm dựa trên cách đối xử thuế quan của Mỹ. Đầu tiên là nhóm các nước có thâm hụt thương mại, tức là nhập siêu từ Mỹ, chịu thuế 10%, đại diện là Anh. Nhóm thứ hai là các nước xuất siêu sang Mỹ với thâm hụt thương mại nhỏ chịu thuế suất 15% như nhóm Liên minh châu Âu. Thứ ba là nhóm các nước xuất siêu sang Mỹ với thâm hụt thương mại lớn và chịu thuế suất khoảng 20 - dưới 30%. Việt Nam nằm trong nhóm này.
Cuối cùng là nhóm “ngoại lệ”, trong đó có một số đối tác quan trọng của Mỹ như Ấn Độ, Thụy Sĩ và Nam Phi, phải chịu mức thuế suất rất cao. Riêng Ấn Độ có thể đối mặt thuế lên đến 50% trong 3 tuần tới nếu không nhượng bộ các yêu cầu của ông Trump.
Bộ trưởng Thương mại Mỹ Howard Lutnick ước tính nước này sẽ thu về hơn 50 tỷ USD mỗi tháng từ thuế nhập khẩu. Phát biểu này được ông Howard Lutnick chia sẻ vào ngày 7/8, theo đó mức thuế thu về tăng mạnh so với con số dự kiến 30 tỷ USD hồi tháng trước.
Nhưng liệu đây có phải là kết luận cuối cùng về thuế quan? Khả năng cao là không.
|
Những bất định và đàm phán thương mại sẽ phải tiếp tục sau ngày 7/8
Những tuyên bố mà chúng ta thấy được phía Liên minh châu Âu (EU) gọi là những thỏa thuận bắt tay. Nó không hề có giá trị pháp lý hay ràng buộc gì. Chính vì vậy mà ông Trump có thể đơn phương tuyên bố tăng thêm 25% thuế quan lên Ấn Độ ngay khi ông cảm thấy không vui vì Ấn Độ vẫn đang mua dầu của Nga.
Ngay cả những thỏa thuận hiếm hoi đã đặt bút ký giấy trắng mực đen như giữa Mỹ và Anh, thì hiện nay phía Anh cũng đang đòi “làm rõ” một số chi tiết về chuyện thỏa thuận ưu đãi thuế xuất khẩu xe. Điều này là tương tự với Nhật. Nhà đàm phán thuế quan hàng đầu của Nhật Bản, Ryosei Akazawa, vừa cho biết ông sẽ lên đường đến Washington nhằm thúc đẩy Tổng thống Donald Trump ký một sắc lệnh hành pháp, qua đó “chính thức áp dụng mức giảm thuế quan đã được thống nhất đối với ô tô nhập khẩu từ Nhật Bản”.
Trước đó, Mỹ đã nhất trí trong một thỏa thuận thương mại về việc giảm thuế quan hiện hành đối với ô tô nhập khẩu từ Nhật Bản xuống còn 15% từ mức thuế 27,5% trước đó, nhưng khung thời gian để thay đổi này có hiệu lực vẫn chưa được công bố.
Nói cách khác, những mức thuế quan, những thỏa thuận, thậm chí ngay cả những thứ đã ký đều ở dạng “khuôn khổ” thỏa thuận thương mại, chứ không phải toàn bộ một thỏa thuận - thứ mà có thể mất nhiều năm để đạt đến về chi tiết và thông qua quốc hội các nước. Ngay cả những đồng thuận được ghi nhận và ký kết trong khuôn khổ thỏa thuận của Anh với Mỹ cũng có thể sẽ phải thay đổi trong tương lai. Không có gì là chắc chắn vào thời điểm này.
Điển hình là Liên minh châu Âu đang trì hoãn các biện pháp đáp trả thuế quan của Mỹ trong 6 tháng để tiếp tục đàm phán. Trước đó, ngày 24/7, các nước thành viên EU đã bỏ phiếu thông qua kế hoạch trả đũa thuế nhập khẩu của Mỹ.
Gói đầu tiên trong kế hoạch trả đũa dự kiến sẽ có hiệu lực từ ngày 7/8 (cùng ngày với thuế quan đối ứng mới sẽ có hiệu lực). Rõ ràng là EU đã tính đến trường hợp thỏa thuận không được suôn sẻ với Mỹ thì sẽ đáp trả. Reuters trích các nguồn tin thân cận cho biết mức thuế sẽ lên đến 30% hoặc hơn, tương tự thuế Mỹ dự kiến sẽ áp với EU theo công bố của ông Trump ngày 12/7.
Tuy nhiên, ngày 27/7, hai bên đã đạt thỏa thuận thương mại. Kể từ ngày 1/8, thuế áp dụng với các sản phẩm của EU bán sang Mỹ là 15%, giảm một nửa so với thông báo trước đó, còn EU sẽ mua lượng lớn năng lượng, thiết bị quân sự của Mỹ.
Những câu chuyện này không phải chỉ là chuyện của nước khác. Nó cũng sẽ là chuyện của Việt Nam. Còn rất nhiều chi tiết và thay đổi trong các điều kiện thuế quan gần như là điều khó tránh.
Trong khi nhiều nhà phân tích viết về “đoạn kết” (“end game”) của cuộc chiến thương mại do ông Trump khởi xướng, thì sự thật chúng ta vẫn còn xa điểm đó lắm. Nhiều chính trị gia và nhà phân tích ở các nước như Nhật Bản và một số nước EU đang tỏ ra tức giận vì họ coi những gì đang diễn ra là sự đầu hàng của các nhà lãnh đạo. Điều này sẽ tạo ra áp lực lên những nỗ lực “giải thích lại” kết quả đàm phán. Ví dụ, Nhật Bản đang giải thích lại rằng khoản cam kết của Nhật đầu tư vào Mỹ không phải do Mỹ quyết định và họ không có trách nhiệm phải giải ngân bằng mọi giá. Nhật sẽ đầu tư khi nào và vào nơi họ thấy phù hợp.
Những diễn biến cho thấy sẽ còn nhiều thay đổi nữa, và còn lâu mới đi đến đoạn kết của các thỏa thuận thương mại. Chúng ta nên nhớ rằng Trung Quốc và Mỹ hầu như chỉ đang đạt đến “đình chiến thương mại” vài tháng lại gặp nhau để kéo dài đình chiến một lần. Một thay đổi từ phía Trung Quốc sẽ khiến nhiều đối tác thương mại của Mỹ thay đổi theo.
Về cơ bản, chúng ta đang ở điểm bắt đầu của một trật tự thương mại toàn cầu mới, trong đó tự do thương mại đã không còn là điều đương nhiên nữa. Dù vậy, ít nhất ở thời điểm này, thì các mức thuế quan mới cũng ở mức độ là “sống được” chứ không tệ như những gì được cho là so với hồi được công bố vào tháng 4.
Thuế quan ở mức "sống được": Thuế hiệu lực thực tế thấp hơn rất nhiều so với các thuế suất công bố
Tờ Financial Times vào ngày 6/8 đã công bố ước tính mới về thuế quan thực hiệu lực vào Mỹ. Con số mới nhất giảm về 17,3%, thấp hơn mức trên 19% trước đó. Và con số “thực tế” sẽ còn thấp hơn nữa, hiện tại được dự đoán chỉ ở mức 9,1% cho các giao thương sẽ thực sự diễn ra, vì nhiều lý do như một số điều khoản miễn giảm (như với Anh về xe hơi), và việc doanh nghiệp Mỹ đã tích trữ hàng hóa và đang vận động một số kênh miễn giảm đối với một số loại hàng thiết yếu cho công nghiệp Mỹ. Cuối cùng, một số công ty luật giải thích rằng nhiều hàng hóa vào Mỹ vẫn sẽ không chịu thuế quan mới cho đến tháng 10 vì họ đã trên tuyến được vận chuyển từ trước khi mức thuế quan 1/8 có hiệu lực.
Nếu thực tế thuế quan chỉ ở mức 9,1% như vậy hoặc chênh lệch một tí, thì nói chung không phải là quá khó khăn. Người tiêu dùng, doanh nghiệp Mỹ và công ty xuất khẩu sang Mỹ sẽ chia sẻ gánh nặng này.
Giống như Jason Furman, giáo sư tại Đại học Harvard và cựu chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Mỹ, đã viết trên Financial Times: “Các thỏa thuận này đưa chúng ta vào tình thế tồi tệ thứ hai, nhưng ít nhất đã tránh được tình thế tồi tệ nhất: một cuộc chiến thương mại toàn cầu với mức thuế quan leo thang ở mọi phía”.
Kết quả đa số quốc gia, bao gồm Việt Nam, đạt được đến lúc này là thế giới tránh một kết quả xấu nhất, dù không đạt được kết quả tốt nhất.
Và thương chiến với Mỹ không phải là thứ duy nhất quan trọng trên thế giới này. Ví dụ, thương mại toàn cầu vẫn còn rất nhiều miếng bánh khác để khai thác. “Phần còn lại của thế giới đang bù đắp cho sự suy giảm ở Mỹ”, Vincent Clerc, giám đốc điều hành của Maersk cho biết. “Người ta đang tập trung nhiều vào thuế quan và ý nghĩa của chúng. Nhưng điều quan trọng cần nhớ là 85% lưu lượng container không phải đến và đi từ Mỹ”.
Nhiều bất định về thương mại vẫn ở phía trước
Thuế suất đối ứng áp lên hàng hóa mà một quốc gia sản xuất chỉ mới là phần nổi của một tảng băng chìm. Đó là vì còn 2 rủi ro khác.
Thứ nhất, là các loại thuế khác. Nó có thể là thuế riêng của từng lĩnh vực, ví dụ đồng chịu thuế suất 50%. Và ông Trump dọa sẽ tăng thuế lên thuốc nhập khẩu lên 250% và chip nhập khẩu 100%. Đây là các dòng thuế riêng cho từng lĩnh vực và được đánh trên một cơ sở pháp lý khác với thuế đối ứng.
Thứ hai, trong khuôn khổ thuế đối ứng, thì vẫn còn một ẩn số rất lớn là mức thuế suất áp cho hàng hóa được cho là trung chuyển lên đến 40%, thậm chí có thể còn hơn vì Mỹ vẫn chưa thật sự “chốt” những vấn đề này.
Cho đến hiện tại, nỗi lo tạm thời được “quên đi”. Reuters nhận định rằng hướng dẫn hiện hành của hải quan Hoa Kỳ nêu rõ hàng hóa từ các quốc gia không có hiệp định thương mại tự do với Washington, chẳng hạn các quốc gia Đông Nam Á, có thể được “dán nhãn” là sản xuất tại quốc gia nơi chúng trải qua "sự biến đổi đáng kể" các linh kiện, ngay cả khi các linh kiện đó hoàn toàn đến từ một quốc gia khác, chẳng hạn Trung Quốc.
Vì không có hướng dẫn mới nào của Hoa Kỳ về quy tắc xuất xứ hoặc quy định cụ thể về nghĩa của việc trung chuyển, một số quan chức ở Đông Nam Á đã nói với các nhà xuất khẩu rằng các quy tắc hiện hành vẫn được áp dụng.
Ví dụ, Arada Fuangtong, Vụ trưởng Vụ Ngoại thương thuộc Bộ Thương mại Thái Lan cho biết "Hiện tại, tất cả hàng hóa xuất khẩu (từ Thái Lan) đều phải chịu mức thuế suất 19% vì chưa có quy định nào về trung chuyển".
Reuters cho biết thông điệp của bà Arada Fuangtong “được các quan chức Hoa Kỳ tại Việt Nam đồng tình”. Theo logic đó, thì mức thuế 20% sẽ áp dụng cho hàng hóa Việt Nam ngay cả khi chúng được sản xuất hoàn toàn bằng linh kiện Trung Quốc và chỉ được lắp ráp tại Việt Nam.
Vấn đề là chúng ta thấy những gì ông Trump và cố vấn thương mại của mình hành xử chưa bao giờ theo logic về quy trình.
Sự mơ hồ của các quy định về trung chuyển lúc này đặt ra một rủi ro cho các nước xuất khẩu ở châu Á, bao gồm Việt Nam. Sẽ không ai biết rằng tác động thật sự của thuế quan sẽ là như thế nào cho đến khi các quy định trở nên rõ ràng hơn. Điều này có thể cần nhiều tháng nữa để biết.
Nhưng ít nhất lúc này, một người bạn làm xuất khẩu ở TP.HCM chuyên xuất hàng sang Mỹ cho tôi biết là vẫn “sống được” và đang cùng đối tác ở Mỹ tháo gỡ những khó khăn từ mấy tháng nay rồi.
Mức thuế quan “sống được”, có thể là kết quả ít tệ nhất mà chúng ta có thể đạt được, và hi vọng sắp tới cũng có thể duy trì được trạng thái đó trước khi có một thay đổi lớn trên toàn cầu theo hướng tích cực hơn.