Mục tiêu chính của việc sửa đổi Luật Viễn thông lần này nhằm nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên viễn thông, thúc đẩy và huy động các thành phần kinh tế tham gia xây dựng phát triển hạ tầng viễn thông và các hạ tầng khác phục vụ cho chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, phù hợp với xu thế phát triển của công nghệ, và giải quyết các bất cập hạn chế trong thực thi Luật thời gian vừa qua.
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI cho rằng, các quy định trong dự thảo hiện nay chưa thực sự thể hiện hay phục vụ mục tiêu này. Bên cạnh những thủ tục hành chính mới phát sinh, Dự thảo còn có những quy định có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài lĩnh vực viễn thông, và chưa thực sự nắm bắt những xu hướng phát triển công nghệ.
Một số ý kiến từ doanh nghiệp bày tỏ quan ngại về việc Dự luật này mở rộng phạm vi áp dụng để điều chỉnh cả các dịch vụ không phải là dịch vụ viễn thông ví dụ dịch vụ hội thoại, tin nhắn, hội họp trên các nền tảng Internet, dịch vụ điện toán đám mây, và dịch vụ trung tâm dữ liệu.
Theo pháp luật của các quốc gia trên thế giới và thông lệ quốc tế thì các dịch vụ trên đều không phải là dịch vụ viễn thông và nên được điều chỉnh bởi những văn bản pháp luật riêng. Nếu Dự luật này được thông qua như dự thảo hiện nay, các loại hình dịch vụ trên sẽ phải xin cấp giấy phép viễn thông và chịu sự điều chỉnh như những dịch vụ viễn thông truyền thống.
Góp ý cho ban soạn thảo, ông Vũ Tú Thành, Phó giám đốc điều hành, Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN (USABC) cho rằng, các quy định hiện nay trong Dự thảo sẽ tạo nên những rào cản đối với đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực điện toán đám mây và dịch vụ trung tâm dữ liệu. Trong khi đó, đây là những dịch vụ vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của một nền kinh tế số.
Hiện các nhà cung cấp OTT nước ngoài đang cung cấp những phương tiện để mọi người có thể trao đổi với nhau dễ dàng và thuận tiện hơn rất nhiều so với trước đây, đồng thời góp phần vào quá trình ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số tại Việt Nam.
Việc phân biệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ OTT và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ viễn thông truyền thống thông qua quy định mức trần tỉ lệ sở hữu nước ngoài sẽ khiến các nhà cung cấp dịch vụ OTT trong nước gặp khó khăn trong huy động vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, điều này sẽ cản trở đổi mới công nghệ tại Việt Nam.
Thực tế, sự phát triển của hai loại hình dịch vụ này rất cần huy động mọi nguồn lực bao gồm cả vốn và và công nghệ từ mọi thành phần kinh tế, trong đó đặc biệt là từ khu vực đầu tư nước ngoài.
Thế nhưng, việc quản lý dịch vụ viễn thông đã tạo ra những hạn chế về vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể, quy định về cấp phép như đối với dịch vụ viễn thông, hoặc buộc các doanh nghiệp nước ngoài phải ký kết hợp đồng thương mại với doanh nghiệp viễn thông trong nước là những quan ngại lớn của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này.
Do đó, các chính sách về quản lý và phát triển dịch vụ viễn thông qua vệ tinh cần được khuyến khích và theo xu thế phát triển chung của thế giới. Cung cấp dịch vụ internet qua vệ tinh đang là một xu thế được triển khai trên thế giới, giúp phủ sóng để cung cấp đường truyền băng rộng với tới tất cả mọi vùng trên toàn cầu.
"Dịch vụ điện toán đám mây và dịch vụ trung tâm dữ liệu đều không phải là dịch vụ viễn thông nên không rõ vì sao các dịch vụ này lại được đưa vào phạm vi điều chỉnh của Luật viễn thông (sửa đổi) và quản lý như các dịch vụ viễn thông", ông Thành băn khoăn.
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ (AmCham), các doanh nghiệp và người dân đang được hưởng nhiều lợi ích từ những hình thức liên lạc, trao đổi thông tin và hội họp qua các nền tảng Internet miễn phí. Đặc biệt trong thời gian đại dịch Covid-19 khi các doanh nghiệp không thể gặp gỡ nhau trực tiếp thì các nền tảng liên lạc như họp trực tuyến, điện thoại và tin nhắn qua Internet đã đóng góp đáng kể vào việc duy trì hoạt động kinh doanh và đầu tư một cách hiệu quả, đặc biệt là các hoạt động xuất nhập khẩu, thương mại điện tử, và đầu tư xuyên biên giới. Vì vậy, có thể nói các loại hình dịch vụ thông tin trên nền tảng Internet đã đóng góp tích cực vào việc duy trì và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong và sau đại dịch.
Hiện nay, các loại dịch vụ OTT này đang là một phần không thể tách rời khỏi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu không được tận dụng những công cụ liên lạc hữu hiệu và miễn phí này, chi phí hoạt động của doanh nghiệp sẽ t ăng lên đáng kể và môi trường kinh doanh, đầu tư của Việt Nam cũng sẽ trở nên kém hấp dẫn và cạnh tranh hơn đối với các doanh nghiệp nước ngoài.
Bà Nguyễn Việt Hà, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Hà Nội (AmCham Hanoi) cho biết, dịch vụ internet vệ tinh sẽ tạo điều kiện phát triển do những lợi thế về độ bao phủ gần như ở mọi nơi, bao gồm cả vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Khi sử dụng dịch vụ này, sẽ không phải đầu tư lắp đặt các hệ thống cáp biển hay đường truyền vốn cần đầu tư lớn và tính ổn định không cao.
Sự phát triển của các dịch vụ internet vệ tinh xuyên biên giới có thể trở thành một lựa chọn bổ sung hiệu quả giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào các tuyến cáp và đường truyền và đa dạng kết nối Internet quốc tế cho những nhóm người dùng khác nhau.
Hiện nay, dịch vụ này đã được triển khai ở một số quốc gia trong khu vực như Nhật Bản, Philippines, Indonesia… Do đó, đại diện hiệp hội đã kiến nghị Luật Viễn thông (sửa đổi) cần dự đoán trước xu thế này và có những quy định khuyến khích hoặc cho phép các dịch vụ internet vệ tinh xuyên biên giới được cung cấp nếu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này có văn phòng đại diện tại Việt Nam hoặc ký kết hợp đồng thương mại với một doanh nghiệp viễn thông trong nước.
Luật Viễn thông (Sửa đổi) dự kiến được trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ năm diễn ra vào tháng 5 và 6/2023.
Theo tờ trình của cơ quan soạn thảo bộ luật này (Bộ Thông tin và Truyền thông), mục tiêu chính của việc sửa đổi Luật Viễn thông lần này là nhằm nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên viễn thông, thúc đẩy và huy động các thành phần kinh tế tham gia xây dựng phát triển hạ tầng viễn thông và các hạ tầng khác phục vụ cho chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, phù hợp với xu thế phát triển của công nghệ, và giải quyết các bất cập hạn chế trong thực thi Luật thời gian vừa qua.