“Dân số trong độ tuổi lao động ở Trung Quốc sẽ giảm nhanh chóng trong thập kỷ tới và nền kinh tế Trung Quốc sẽ phải đối mặt với mức tăng trưởng GDP 1% mỗi năm trong 10 năm tới”, Darren Tay, người đứng đầu bộ phận rủi ro quốc gia châu Á của BMI cho biết.
Đơn vị Tình báo Kinh tế (EIU) cảnh báo rằng: “Căng thẳng tài khóa do già hóa dân số là hiện hữu ngay lập tức và đáng lo ngại… Tăng trưởng kinh tế xoay quanh năng suất, tích lũy vốn và đầu vào lao động. Theo báo cáo được công bố vào tháng 1, tác động tiêu cực của bối cảnh nhân khẩu học bất lợi sẽ biểu hiện chủ yếu thông qua việc lực lượng lao động bị thu hẹp”.
EIU cho biết, tăng tuổi nghỉ hưu là một trong số ít lựa chọn khả thi để duy trì cân bằng tài chính dài hạn.
“Tính toán của chúng tôi cho thấy rằng nếu tuổi nghỉ hưu tăng lên 65 vào năm 2035, mức thâm hụt ngân sách lương hưu có thể giảm 20% và lương hưu ròng nhận được có thể tăng 30%, cho thấy giảm bớt gánh nặng cho cả chính phủ và hộ gia đình”, báo cáo cho biết.
Tỷ lệ sinh đang giảm trên khắp thế giới do phụ nữ chọn sinh con muộn hơn hoặc không sinh con.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), tỷ lệ sinh đã giảm một nửa ở các nước OECD, giảm từ khoảng 3,3 trẻ em trên một phụ nữ vào năm 1960 xuống còn khoảng 1,5 trẻ em trên một phụ nữ vào năm 2022.
Dân số Trung Quốc đang sụt giảm
Theo dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, dân số Trung Quốc đã giảm năm thứ hai liên tiếp vào năm 2023 xuống còn 1,409 tỷ người - giảm 2,08 triệu người so với năm trước.
Erica Tay, Giám đốc nghiên cứu vĩ mô tại Maybank cho biết: “Đây là hậu quả của chính sách một con được áp dụng vào những năm 1980”.
Dân số Trung Quốc dự kiến sẽ giảm xuống còn 1,317 tỷ người vào năm 2050 và giảm gần một nửa xuống còn 732 triệu người vào năm 2100.
Tianchen Xu, nhà kinh tế cấp cao tại EIU cho biết, tỷ lệ sinh ở nước này đang giảm nhanh hơn so với các nước trong khu vực như Hàn Quốc và Nhật Bản.
Ông cho biết, ba quốc gia này bị ảnh hưởng nặng nề bởi dân số già đi nhanh chóng, phần lớn là do mức sống được cải thiện, vốn có “mối quan hệ nghịch đảo rất chặt chẽ với tỷ lệ sinh sản”.
Đặc biệt, Trung Quốc đã tăng trưởng với tốc độ rất cao trong gần ba thập kỷ và sự mở rộng kinh tế của nước này đã nhanh chóng và mở rộng.
Theo nhà kinh tế Tianchen Xu, chính phủ phần lớn không có khả năng quản lý chi phí nhà ở tăng đáng kể, khi nhà ở ngày càng trở nên đắt đỏ, mọi người có thể gặp khó khăn trong việc mua nhà và trì hoãn việc lập gia đình.
Tỷ lệ sinh giảm
Sự mở rộng kinh tế nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây ở các quốc gia phát triển đã mang lại mức thu nhập tăng lên và mở rộng cơ hội giáo dục và nghề nghiệp cho phụ nữ.
Những điều kiện được cải thiện này đã dẫn đến chi phí cơ hội lớn hơn cho việc sinh con.
Ông Darren Tay cho biết: “Ở các xã hội phát triển hơn, xu hướng cha mẹ phải đối mặt với chi phí nuôi dạy con cái cao hơn nhiều và điều đó có xu hướng cản trở việc sinh con… Nền kinh tế càng phát triển thì các tác nhân trong nền kinh tế càng phải có nhiều kỹ năng hơn, và do đó, mức đầu tư cần thiết cho mỗi trẻ em sẽ tăng lên theo mức đó”.
“Trong số các nước châu Á, có một tư duy cố hữu về việc làm việc nhiều giờ. Điều này đặc biệt là vấn đề ở Trung Quốc, Hàn Quốc...và các khu vực khác ở Đông và Đông Nam Á… Những quốc gia này có tổng số giờ làm việc dài nhất thế giới, và kết quả là người lao động có ít thời gian hơn để lập gia đình”, nhà kinh tế Tianchen Xu cho biết.
Thu hẹp lực lượng lao động
Tỷ lệ sinh giảm gây áp lực lên nền kinh tế và xã hội nói chung khi dân số lao động giảm.
“Tỷ lệ sinh của một quốc gia sẽ chuyển thành sự gia tăng dân số trong độ tuổi lao động của quốc gia đó trong khoảng hai thập kỷ tới”, bà Erica Tay cho biết.
Ngoài ra, tỷ lệ sinh giảm có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ người già cần sự hỗ trợ từ thế hệ trẻ, điều này có thể đặt gánh nặng quá mức lên hệ thống lương hưu và chăm sóc sức khỏe của một quốc gia.
Cuối cùng, gánh nặng đối với thế hệ trẻ sẽ tăng lên khi họ không chỉ cần chăm sóc cho con cái mà còn cho cả cha mẹ già của mình.
Bà cho biết, sự thay đổi nhân khẩu học ở các khu vực châu Á là một vấn đề mang tính cơ cấu đòi hỏi “nỗ lực toàn diện và quyết tâm của chính phủ” về cả chính sách tài khóa và tiền tệ.
Sự thay đổi chính sách của Trung Quốc
Tại Trung Quốc, các nhà hoạch định chính sách đang rất chú trọng đến tăng trưởng năng suất.
“Họ đã thấy rằng đóng góp của lao động vào GDP đang có sự sụt giảm rất lớn, điều này không thể giảm thiểu được bằng bất kỳ hình thức can thiệp chính sách nào trong ngắn hạn… Đó là lý do tại sao họ tập trung vào việc tăng năng suất”, nhà kinh tế Tianchen Xu cho biết.
Nước này đã đầu tư rất nhiều vào việc chuyển đổi sang các giải pháp kỹ thuật số và phát triển các công nghệ như tự động hóa và chip tiên tiến, với mục tiêu làm cho các ngành công nghiệp truyền thống hiệu quả hơn và cải thiện năng suất nói chung.
Nhìn về phía trước, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc được khuyến khích hành động nhiều hơn nữa về môi trường lao động. “Điều đó có thể đòi hỏi phải thực thi luật lao động chặt chẽ hơn và thúc đẩy sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống”, nhà kinh tế Tianchen Xu cho biết.
Các nhà kinh tế cũng đồng ý rằng các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc cũng nên nỗ lực tăng tuổi nghỉ hưu ở nước này, tạo ra các khoản giảm thuế mạnh mẽ hơn cho các chi phí liên quan đến việc nuôi dạy trẻ em và tăng cường nỗ lực xây dựng nhà ở giá rẻ ở nước này.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), mặc dù tốc độ tăng trưởng dự kiến ở Trung Quốc chậm lại do vấn đề nhân khẩu học, nhưng GDP của nước này vẫn tăng trung bình 9% mỗi năm kể từ năm 1978.
Cuối cùng, “thực tế là mức tăng trưởng thậm chí khoảng 3% sẽ không phải là một thảm họa đối với nền kinh tế Trung Quốc, theo bất kỳ sự tưởng tượng nào”, ông Darren Tay cho biết
“Nếu họ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ đó, có lẽ sẽ bền vững hơn, thì thực tế, người dân Trung Quốc trung bình sẽ có thu nhập tốt hơn 13% vào năm 2033… Vì vậy, mức sống vẫn sẽ tiếp tục tăng”, ông cho biết thêm.