Khi bảo hiểm là động lực tăng trưởng mới

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Những biến cố lớn thời gian qua đã ảnh hưởng tới việc hiện thực hóa mục tiêu gắn kết ngành bảo hiểm với tăng trưởng GDP.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam còn nhiều dư địa tăng trưởng Thị trường bảo hiểm Việt Nam còn nhiều dư địa tăng trưởng

Gần 36 tỷ USD bổ sung nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế

Tính đến ngày 30/11/2025, các doanh nghiệp bảo hiểm đã đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 949.308 tỷ đồng (tương đương gần 36 tỷ USD), tăng 10,15% so với cùng kỳ năm trước, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư dài hạn ổn định cho nền kinh tế, theo Bộ Tài chính.

Trước đó, vào tháng 8/2025, trình lên Chính phủ, Bộ Tài chính dự kiến trong năm 2025, tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm ước đạt 895.954 tỷ đồng (tăng 31,66% so với năm 2022), trong đó khối phi nhân thọ ước đạt 82.654 tỷ đồng, khối nhân thọ ước đạt 813.300 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2022-2025 đạt khoảng 10,28%/năm.

Con số đầu tư trở lại nền kinh tế duy trì ở mức 2 con số trong năm 2025 không chỉ tiếp tục cho thấy năng lực tài chính ổn định, mà còn khẳng định cam kết của các doanh nghiệp bảo hiểm trong việc bảo đảm quyền lợi cho khách hàng, đồng thời thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa ngành bảo hiểm và sự phát triển bền vững của quốc gia.

Nguồn vốn này đã được đầu tư vào các kênh quan trọng như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và các công cụ tài chính, là một trong những kênh dẫn vốn quan trọng cho các dự án kinh tế trọng điểm. Cụ thể, tổng số tiền đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vào trái phiếu chính phủ chiếm tỷ trọng khoảng 35%, góp phần thực hiện thành công các kế hoạch phát hành trái phiếu của Chính phủ, ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này không chỉ góp phần ổn định thị trường tài chính, mà còn cung cấp nguồn lực cần thiết để thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng, năng lượng và phát triển công nghệ.

Giai đoạn 2026-2030, Chính phủ dự kiến nguồn vốn đầu tư công lên tới 8,5 triệu tỷ đồng. Đây là cơ hội cho các công ty bảo hiểm phi nhân thọ tiếp tục tiếp cận những dự án hạ tầng giao thông lớn, các công trình trọng điểm quốc gia, từ đó mang lại nguồn doanh thu đáng kể.

Theo Bộ Tài chính, có khoảng 80% các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình kinh tế lớn của Nhà nước đã được các doanh nghiệp bảo hiểm bảo vệ về mặt tài chính trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm mà không cần phải sử dụng đến nguồn kinh phí hỗ trợ thiệt hại từ ngân sách nhà nước, góp phần thực hiện chính sách tài khóa.

Ngoài ra, vốn đầu tư từ bảo hiểm còn giúp các doanh nghiệp sản xuất có nguồn lực mở rộng hoạt động, từ đó tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện thu nhập cho người lao động. Người dân cũng hưởng lợi từ các khoản đầu tư này thông qua việc ổn định thị trường tài chính, giúp mặt bằng lãi suất duy trì ở mức hợp lý.

Theo ông Nguyễn Anh Tuấn - Phó chủ tịch Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (IAV), Chủ tịch HĐQT Tổng CTCP Tái bảo hiểm Quốc gia (Vinare), số tiền các công ty bảo hiểm đầu tư trở lại nền kinh tế không chỉ thể hiện quy mô ngành, mà còn là dòng chảy vốn bền vững hỗ trợ cho nền kinh tế, tổ chức/doanh nghiệp và người dân phát triển toàn diện hơn. Nguồn vốn từ bảo hiểm lâu nay được xem là nguồn vốn trung - dài hạn hữu ích để đầu tư và tái thiết nền kinh tế nước nhà.

Quy mô thị trường mới đạt gần 2% GDP

Kết quả nghiên cứu tác động xã hội và kinh tế của ngành bảo hiểm tại ASEAN do Prudential nêu tại phiên chuyên đề thuộc khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh Việt Nam - Anh diễn ra mới đây cho thấy, quy mô thị trường bảo hiểm Việt Nam tương đương khoảng 3% GDP, bằng mức trung bình 6 nước Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam), nhưng thấp hơn đáng kể mức trung bình toàn cầu là 6,7%.

Cần nhắc lại về các mục tiêu lớn được Thủ tướng Chính phủ đặt ra trước đó cho ngành bảo hiểm: Quy mô đạt 3-3,3% GDP vào năm 2025 với 15% dân số tham gia bảo hiểm nhân thọ và đến năm 2030 đạt 3,3-3,5% GDP với 18% dân số có bảo hiểm nhân thọ; tăng trưởng doanh thu phí bình quân giai đoạn 2026-2030 là 10%/năm; tốc độ tăng trưởng bình quân về tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế bình quân 15%/năm giai đoạn 2021-2025 và 10%/năm giai đoạn 2026-2030…

Trong khi đó, kết thúc 11 tháng đầu năm 2025, tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 210.167 tỷ đồng, tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước, theo số liệu từ Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính). Dự kiến, trong năm 2025, tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 239.636 tỷ đồng (giảm 3,29% so với năm 2022), trong đó khối phi nhân thọ ước đạt 85.938 tỷ đồng, khối nhân thọ ước đạt 153.698 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2022-2025 giảm khoảng 0,91%/năm.

Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế Trần Nguyên Đán, nếu tổng doanh thu phí của các công ty bảo hiểm đạt con số 239.636 tỷ đồng như trên (tương đương khoảng 9,19 tỷ USD) và GDP 2025 chạm mốc 510 tỷ USD thì quy mô thị trường bảo hiểm ước đạt gần 2%, chứ chưa đạt mức 3%, vì quy mô nền kinh tế đang tăng nhanh.

Định hướng của Chính phủ là gắn kết ngành bảo hiểm với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, năm qua, mục tiêu tăng độ phủ bảo hiểm gặp nhiều khó khăn bởi ảnh hưởng từ những cuộc tranh chấp giữa khách hàng và công ty bảo hiểm liên quan đến chất lượng dịch vụ, bồi thường, đặc biệt từ kênh bán bảo hiểm qua ngân hàng (bancassurance), làm suy giảm niềm tin của người dân với ngành bảo hiểm, gây cản trở trong việc hiện thực hóa mục tiêu này.

Việc gắn kết ngành bảo hiểm với tăng trưởng kinh tế đã khẳng định vai trò thiết yếu của bảo hiểm trong nền kinh tế. Bởi vậy, những gì chưa đạt được cũng là động lực để từ năm 2026 toàn ngành tiếp tục nỗ lực, các doanh nghiệp bảo hiểm tiếp tục vươn lên, gia tăng đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Nghiên cứu trên cũng cho thấy dư địa tăng trưởng của ngành bảo hiểm Việt Nam còn lớn, có khả năng tác động tích cực đến nền kinh tế. Theo đó, nếu độ phủ bảo hiểm tăng 50% thì GDP và GDP bình quân đầu người có thể tăng thêm lần lượt 4,1% và 2,5%.

Để gia tăng đóng góp vào nền kinh tế

Để gia tăng đóng góp vào nền kinh tế, trở thành động lực tăng trưởng mới, theo ông Steven Chan - Giám đốc Quan hệ chính phủ và Chính sách, Tập đoàn Prudential, ngành bảo hiểm cần nhiều hợp tác công tư (PPP) hơn, như cơ chế ưu đãi cho các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào trái phiếu xanh và cơ sở hạ tầng, phù hợp với đặc thù đầu tư dài hạn của bảo hiểm nhân thọ (15-30 năm).

Liên quan đến hoạt động đầu tư, Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành quy định “công ty bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm không được mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong đó có mục đích để cơ cấu lại các khoản nợ của chính doanh nghiệp phát hành…”.

Quy định trên nhằm bảo an toàn vốn cho công ty bảo hiểm, ngăn dòng vốn bảo hiểm bị sử dụng để xoay vòng nợ, không tạo giá trị gia tăng, đồng thời đảm bảo quyền lợi người tham gia bảo hiểm và góp phần ổn định hệ thống tài chính, nhưng khi áp dụng trong thực tiễn lại bộc lộ một số hạn chế, dẫn tới nguy cơ thiếu hụt nguồn lực cho các dự án chiến lược, trong khi cơ cấu nợ là nhu cầu tất yếu của các dự án dài hạn.

Do đó, ông Nguyễn Anh Tuấn - Chủ tịch Vinare và nhiều lãnh đạo công ty bảo hiểm khác như Bảo hiểm phi nhân thọ Techcom (TCGIns), Bảo hiểm Sài Gòn - Hà Nội (BSH)… cho rằng, cần gỡ bỏ hạn chế đầu tư vào trái phiếu “đảo nợ”, cho phép cho được mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong đó có mục đích để cơ cấu lại các khoản nợ của chính doanh nghiệp phát hành, đi kèm với các tiêu chí để quản lý rủi ro.

“Chính phủ đang ưu tiên đầu tư nhiều dự án hạ tầng then chốt như đường cao tốc Bắc - Nam, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam… với thời gian đầu tư kéo dài 15-30 năm. Việc các doanh nghiệp bảo hiểm vốn là các định chế nắm giữ nguồn vốn dài hạn ổn định nhất, nhưng lại bị giới hạn đầu tư vào trái phiếu cơ cấu nợ sẽ tác động không nhỏ tới chiến lược phát triển hạ tầng quốc gia, dẫn đến thiếu hụt nguồn lực cho các dự án chiến lược”, ông Tuấn lưu ý.

Kim Lan

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục