Gỡ nghẽn xử lý nợ xấu để giải phóng nguồn vốn

(ĐTCK)  Nợ xấu ở nhiều ngân hàng có xu hướng tăng trong nửa đầu năm, trong khi tín dụng có xu hướng chảy mạnh vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, tài chính.
Đẩy mạnh xử lý nợ xấu sẽ khơi thông nguồn vốn, từ đó tạo cơ hội cho ngân hàng giảm lãi suất

Nợ xấu nhích lên trong nửa đầu năm

Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, lãi suất cho vay tiếp tục xu hướng đi xuống trong nửa đầu năm. Theo đó, tại thời điểm cuối quý II/2025, lãi suất cho vay bình quân mới ở mức 6,23%/năm, giảm 0,7%/năm so với cuối năm 2024.

Tuy nhiên, tại buổi đối thoại với doanh nghiệp, do Trung tâm Xúc tiến thương mại và Đầu tư TP.HCM và Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh khu vực II tổ chức, nhiều doanh nghiệp cho biết, dù đã có nhiều gói tín dụng ưu đãi được công bố, nhưng khả năng tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ - đối tượng chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, do thiếu tài sản bảo đảm.

Trao đổi với Báo Đầu tư Chứng khoán, ông Trần Ngọc Báu, Tổng giám đốc Công ty Dữ liệu kinh tế tài chính WiGroup nhận định, trong nửa đầu năm 2025, tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng đều ghi nhận sự cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, đằng sau những con số tích cực này vẫn tồn tại một số vấn đề. Đặc biệt, khả năng tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp vẫn là điểm nghẽn chưa được giải quyết triệt để.

Theo ông Báu, động lực chính thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hiện nay đến từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và đầu tư công. Trong khi đó, tín dụng với khu vực hộ gia đình và khối doanh nghiệp tư nhân trong nước vẫn chưa phục hồi mạnh mẽ, phản ánh sự mất cân đối trong nền tảng tăng trưởng.

Dữ liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước cũng cho thấy, dòng tín dụng vào khu vực sản xuất từ đầu năm đến nay chưa có sự đột phá đáng kể. Tín dụng dành cho các lĩnh vực như thương mại, vận tải và viễn thông dao động quanh mức 18 - 19%. Các lĩnh vực như bất động sản, xây dựng, chứng khoán và nhóm khác ghi nhận mức tăng mạnh.

Bối cảnh này, theo ông Báu, phản ánh thực trạng cầu tín dụng yếu của khu vực sản xuất, do triển vọng kinh tế chưa rõ ràng, tiêu dùng nội địa phục hồi chậm, xuất khẩu gặp nhiều rào cản. Nhiều doanh nghiệp vẫn ưu tiên duy trì hoạt động, thay vì mở rộng sản xuất. Trong khi đó, phía cung tín dụng lại nghiêng về các tập đoàn lớn và hệ sinh thái kinh doanh có liên quan đến bất động sản, tài chính - những nhóm mà nhu cầu vốn lúc này chủ yếu để phục vụ tái cấu trúc vốn nội bộ. Điều này khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn là lực lượng có nhu cầu cấp thiết về vốn trong phục hồi sản xuất, tiếp tục gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng.

“Nếu tình trạng này kéo dài có thể tạo ra những hệ lụy lớn đối với hệ thống ngân hàng và sự ổn định của thị trường tài chính”, ông Báu nhận định.

Đáng chú ý, báo cáo tài chính các ngân hàng vừa công bố cho thấy lợi nhuận tăng nhưng nợ xấu của ngành ngân hàng cơ bản cũng trong xu hướng tăng. Cụ thể, tính đến 30/6/2025, tổng nợ xấu của Vietcombank lên tới 15.576 tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm; tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ theo đó tăng nhẹ lên mức 1%, so với mức 0,96% vào đầu năm.

Tại BIDV, tổng nợ xấu tại thời điểm cuối quý II/2025 là 43.140 tỷ đồng, tăng 49% so với đầu năm; tỷ lệ nợ xấu/dư nợ tăng từ mức 1,41% đầu năm lên 1,98%.

Tại khối ngân hàng thương mại tư nhân, tính đến 30/6/2025, Sacombank có tổng nợ xấu 14.472 tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm; tỷ lệ nợ xấu đạt 2,46%, tăng nhẹ so với mức 2,4% hồi đầu năm. Tương tự, tỷ lệ nợ xấu hợp nhất của Techcombank tăng lên 1,32%, so với 1,17% vào cuối năm 2024; nợ xấu HDBank ở mức 1,94%, tăng so với con số 1,75% thời điểm cuối năm 2024.

Báo cáo tài chính quý II/2025 của Saigonbank cho thấy, chất lượng tín dụng có dấu hiệu suy giảm, khi số dư nợ xấu cuối kỳ tăng 11,9%, lên 650 tỷ đồng, kéo tỷ lệ nợ xấu từ mức 2,66% lên 3,21%. Thực tế này khiến chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của Saigonbank tăng gần gấp đôi trong quý, gây áp lực lên kết quả kinh doanh giữa lúc dư nợ cho vay sụt giảm.

Gỡ “nghẽn” xử lý nợ xấu

Kiến nghị được TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia đưa ra, cần sớm có những giải pháp song hành, đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu và giảm chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng, từ đó, hỗ trợ việc giảm lãi suất cũng như tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế.

Mới đây, Quốc hội đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi, trong đó “luật hóa” một số quy định tại Nghị quyết 42/2017 của Quốc hội về xử lý nợ xấu. Theo đó, Luật trao quyền chủ động cho các tổ chức tín dụng được thu hồi và xử lý tài sản đảm bảo để xử lý nợ xấu. Đây là tin vui với các tổ chức tín dụng, bởi Nghị quyết 42/2017 đã hết hiệu lực từ 1/1/2024, tạo “khoảng trống” pháp lý trong xử lý nợ xấu với các ngân hàng. Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi có hiệu lực từ ngày 15/10/2025.

Tuy nhiên, theo luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành Công ty Luật Basico, cho đến nay, Tòa án vẫn là cơ quan tài phán chủ yếu cho những tranh chấp phát sinh từ lĩnh vực ngân hàng và có nhiều rủi ro phát sinh sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án. Nhiều vụ án có quá trình giải quyết kéo dài hàng năm trời. Thậm chí, trong nhiều vụ việc, ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ hiểu và vận dụng pháp luật không đúng của chính giới tòa án.

Ông Hải dẫn chứng, năm 2011, một ngân hàng đã từng bị tòa án tuyên vô hiệu một hợp đồng thế chấp bất động sản của bên thứ ba, với lý do tên gọi của hợp đồng không đúng. Cụ thể, tòa án cho rằng, phải gọi tên hợp đồng là “bảo lãnh”, vì có tài sản của bên thứ ba đưa vào, còn gọi “thế chấp” là không đúng và khi hợp đồng bị gọi sai tên thì trở thành vô hiệu. Cách hiểu của Tòa dựa trên định nghĩa về thế chấp, bảo lãnh tương tự như trong Bộ luật Dân sự năm 1999, có điều bộ luật này đã bị thay thế và khái niệm “thế chấp”, “bảo lãnh” cũng đã được định nghĩa lại bởi Bộ luật Dân sự năm 2005 - vào thời điểm xảy ra vụ án.

“Hiện tượng thắt nút cổ chai về tư duy pháp lý nêu trên đã tồn tại từ năm 2011 đến nay và vẫn tạo nên nhiều hậu quả tín dụng cho giới ngân hàng”, ông Hải cho biết.

Một ví dụ khác, ngân hàng mất quyền xử lý tài sản bởi tòa án lục vấn lại quá khứ bên bán, bên mua đã từng thỏa thuận giá mua - bán khác ngoài hợp đồng công chứng. Bất chấp việc chuyển nhượng bất động sản đã được công chứng, tài sản đã sang tên người mua, đã thế chấp vào ngân hàng theo đúng thủ tục công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm, tòa vẫn tuyên hủy hợp đồng mua bán này. Vậy là, ngân hàng bỗng dưng mất tài sản bảo đảm vì một lý do mà ngân hàng không thể biết để thẩm định được khi nhận thế chấp bằng bất động sản.

Ngân hàng là đối tượng nhận bảo đảm nhiều nhất trong nền kinh tế, xuất phát từ hoạt động tài trợ tín dụng. Khi nợ trở thành nợ xấu, giới ngân hàng chỉ còn biết dựa vào tài sản bảo đảm để hy vọng xử lý nợ. Ra đến tòa án, rất nhiều lý do có thể dẫn tới việc ngân hàng mất quyền xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu không còn hy vọng xử lý. Đổi mới vấn đề này, cần trông chờ vào việc hình thành mô hình cơ quan tài phán mới có đủ chuyên môn, đủ công tâm và hoạt động dưới sự giám sát chặt chẽ của pháp luật.

Cũng theo luật sư Hải, không nhất thiết cơ quan tài phán đó phải là trọng tài, nhưng nếu là tòa án thì đó phải là mô hình tòa chuyên trách, với đội ngũ thẩm phán được tuyển trạch hoàn toàn theo tiêu chí mới từ những nguồn nhân sự của cả khối tư pháp và bổ trợ tư pháp, dựa trên năng lực trình độ. Kết hợp với cơ chế bảo đảm sự độc lập thực sự và sự giám sát minh bạch, các thẩm phán có chuyên môn, đề cao pháp luật và danh tiếng sẽ góp phần làm cho hoạt động của giới ngân hàng hạn chế rõ ràng hậu quả trong xử lý nợ xấu.

“Ba vấn đề nêu trên không phổ biến trong những học thuyết về tái cấu trúc, quản trị ngân hàng hiện đại nhưng lại tồn tại thực tế trong giới ngân hàng như những trở ngại trong việc thúc đẩy nguồn vốn tín dụng tiêu dùng, kinh doanh phục vụ nền kinh tế. Ưu tiên giải quyết ba vấn đề trên, nhiều tiềm năng của lĩnh vực ngân hàng Việt Nam sẽ được giải phóng, trong đó, lãi suất ngân hàng giảm hỗ trợ doanh nghiệp phát triển kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”, luật sư Hải nhấn mạnh.

Hồng Dung

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục