Cụ thể, theo ông Hironobu Kitagawa - Trưởng đại diện JETRO Hà Nội, kết quả đợt khảo sát trong tháng 10/2018 cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp trả lời "có lãi" chiếm 65,3%.
Đáng chú ý, tỷ lệ có lãi đối với những doanh nghiệp thành lập trước năm 2010 giữ ổn định ở mức trên dưới 80%, đạt mức lãi cao nhất trong số các doanh nghiệp Nhật đầu tư tại Việt Nam.
“Điều này phản ánh đúng phương châm và hoạt động của doanh nghiệp Nhật Bản là mong muốn lựa chọn đầu tư lâu dài tại Việt Nam”, ông Kitagawa cho hay.
Bên cạnh đó, khối doanh nghiệp chế tạo, xuất khẩu có thành tích kinh doanh tốt. Trong đó, doanh nghiệp ở khu vực Bắc Bộ có tỷ lệ lãi cao hơn so với khu vực miền Nam và các khu vực khác.
Với kết quả khả quan này, đại diện Jetro cho biết, có khoảng 69,8% doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam có phương châm "mở rộng kinh doanh", so với nước khác, khả năng mong muốn tiếp tục mở rộng là tương đối cao so với mức 48,7% tại Trung Quốc, Philippines 52,4%, Indonesia 49,2%...
Ngay cả đối với các doanh nghiệp thành lập trước năm 2010 cũng có 67,1% doanh nghiệp có phương châm mở rộng, điều đó cho thấy Việt Nam tiếp tục là điểm đến đầu tư quan trọng. Lý do chính của việc mở rộng kinh doanh tại Việt Nam được các doanh nghiệp Nhật Bản cho là tăng doanh thu và khả năng tăng trưởng, tiềm năng cao.
Về lợi thế của môi trường đầu tư, theo kết quả khảo sát của Jetro, trong số các lợi thế về môi trường đầu tư thì "quy mô thị trường, khả năng tăng trưởng" là lợi thế lớn nhất của Việt Nam. Ngoài ra, so với các nước khác, "chi phí nhân công rẻ" cũng là lợi thế được các doanh nghiệp Nhật Bản nhận định.
Tuy nhiên, bên cạnh đó các rủi ro trong môi trường đầu tư tại Việt Nam vẫn được các doanh nghiệp Nhật Bản đề cập với 4/5 hạng mục đã được cải thiện. Song hạng mục "hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, vận hành không rõ ràng" lại cao hơn năm trước với mức đánh giá là 48,2%, tăng cao hơn năm trước 1,3 điểm.
Liên quan đến các khó khăn trong hoạt động kinh doanh, có hơn 50% doanh nghiệp nêu ra vấn đề về sự tăng lương cho nhân viên, khó khăn trong thu mua nguyên liệu, linh phụ kiện tại nước sở tại, khó khăn trong việc quản lý chất lượng, mặc dù vậy tỷ lệ này so với năm trước đã có cải thiện.
Về rủi ro, Jetro cho biết phản hồi của doanh nghiệp Nhật Bản cho thấy đối với hạng mục "cơ chế, thủ tục thuế phức tạp, thường xuyên có sự thay đổi", nhất là thuế thu nhập cá nhân và thuế chuyển nhượng đang có vấn đề. Chính sách phát triển ngành công nghiệp ô tô vẫn chưa cụ thể khiến các doanh nghiệp khó nắm bắt để có thể xây dựng chiến lược phát triển tổng thể.
Liên quan đến vấn đề nội địa hóa, Jetro cho biết kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ nội địa hóa của thị trường Việt Nam tăng dần, đạt mức tăng cao nhất trong số các quốc gia là đối tượng khảo sát và được các doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá cao.
“Việt Nam đạt tỷ lệ nội địa hóa 36,3%. Đến năm 2018, Việt Nam lần đầu tiên vượt Malaysia về tỷ lệ nội địa hóa. Tuy nhiên, so với Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia vẫn ở mức thấp.
So với các nước khác, tỷ lệ mua từ các nước khác (ngoài doanh nghiệp nội địa của Việt Nam và Nhật Bản) khá cao, nhưng nhìn lại con số mua từ các doanh nghiệp nội địa của Việt Nam 10 năm trở lại đây với tỷ lệ 14,4% là tương đối thấp.
"Do đó, doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều dư địa để tăng khả năng cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp Nhật Bản”, ông Kitagawa nhận định.
Về tình hình xuất khẩu, kết quả khảo sát của Jetro đã chỉ ra một sự thay đổi đáng chú ý là xu hương xuất khẩu hoàn toàn của các doanh nghiệp Nhật Bản sản xuất tại Việt Nam đã có xu hướng thu hẹp và thay vào đó là chuyển dịch dần sang tiêu thụ nội địa. Thị trường xuất khẩu có xu hướng tăng lên là Nhật Bản với mức tăng 3,1% và Mỹ tăng 0,7%, còn châu Âu và Trung Quốc có xu hướng giảm.
Số ngày làm thủ tục thông quan về tổng thể đã giảm so với năm trước cũng là những chuyển biến được các doanh nghiệp Nhật Bản ghi nhận trong việc hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Ghi nhận kết quả khảo sát các doanh nghiệp Nhật Bản, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vũ Đại Thắng cho rằng, đây là dấu hiệu tích cực cho thấy các các doanh nghiệp Nhật đánh giá cao những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam.
“Các kết quả phản ánh trong báo cáo làm người quản lý như chúng tôi rất phấn khởi, ví dụ như số doanh nghiệp làm ăn có lãi tăng lên, khoảng 65% là con số rất đáng quý nếu so sánh với doanh nghiệp FDI tại Việt Nam báo lỗ ở mức 52%; chỉ số về doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại Việt Nam có mong muốn đầu tư mở rộng 70%, cao nhất trong các nước khảo sát thể hiện rõ môi trường kinh doanh ổn định cũng như tính hấp dẫn trong môi trường kinh doanh đầu tư của Việt Nam đối với các doanh nghiệp Nhật Bản.
Bên cạnh đó, về chỉ số nội địa hóa, tôi thấy 36,3% có xu hướng tăng là đáng quý, thể hiện rõ các chính sách của Chính phủ trong thúc đẩy nền công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam bước đầu có hiệu quả với doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp FDI và trong đó có doanh nghiệp Nhật bản”, Thứ trưởng Vũ Đại Thắng nhấn mạnh.
Ông Thắng cũng khẳng định với những số liệu và thông tin mà doanh nghiệp Nhật đưa ra là crất đáng quý để Việt Nam có cơ sở thực tiễn tiếp tục hoàn thiện chính sách về thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới, đồng thời cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng thuận lợi hơn cho cộng đồng doanh nghiệp và các nhà đầu tư.
“Với các vấn đề và thắc mắc chưa rõ ràng mà doanh nghiệp Nhật Bản đã nêu lên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam sẽ phối hợp với các Bộ, ngành khác làm rõ và sẽ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp”, ông Thắng khẳng định.
Cũng theo đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trên cơ sở các ý kiến của doanh nghiệp Nhật Bản, Bộ sẽ tiếp thu để tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện dự thảo Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp sửa đổi trình Chính phủ trình Quốc hội vào cuối năm 2019 để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hiệu quả và chất lượng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.