Nhu cầu đầu tư lớn cho giai đoạn tăng trưởng 2 con số
Báo cáo Quốc hội, Chính phủ cho biết, qua tổng hợp sơ bộ, nhu cầu đầu tư giai đoạn 2026-2030 của các bộ, ngành, địa phương vào khoảng 8,662 triệu tỷ đồng. Đây là con số được ước tính đến ngày 30/9/2025, trong đó có 5,325 triệu tỷ đồng vốn ngân sách trung ương.
Trong nguồn lực này, ngoài 265.842 tỷ đồng chuyển nguồn từ giai đoạn trước sang, thì nhu cầu đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm là 2,9 triệu tỷ đồng, nhu cầu đầu tư xây dựng các dự án mới, cũng như nhu cầu trung ương hỗ trợ các địa phương là khoảng 2 triệu tỷ đồng.
Nhu cầu đầu tư là rất lớn. Cũng là dễ hiểu khi các bộ, ngành, địa phương đều có nhu cầu đầu tư lớn trong giai đoạn 2026-2030, giai đoạn có ý nghĩa chiến lược trong đột phá phát triển của các địa phương nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung. Đây là giai đoạn nền kinh tế sẽ bứt phá với tăng trưởng 2 con số, mà khởi đầu là năm 2026, với mục tiêu đang được dự thảo là tăng trưởng từ 10% trở lên.
Nhu cầu là rất lớn, nhưng báo cáo Quốc hội, Chính phủ cho biết, khả năng cân đối vốn ngân sách cho đầu tư công giai đoạn 2026-2030 chỉ là 8,31 triệu tỷ đồng, bao gồm 3,8 triệu tỷ đồng vốn ngân sách trung ương và 4,51 triệu tỷ đồng vốn ngân sách địa phương.
Dù chưa đáp ứng được nhu cầu, nhưng con số 8,31 triệu tỷ đồng đã là một ngân khoản “khủng”, nhất là nếu so với ngân khoản 2,87 triệu tỷ đồng của Kế hoạch Đầu tư công trung hạn 2021-2025. Giai đoạn trung hạn 2021-2025, dù ban đầu nguồn lực được bố trí là 2,87 triệu đồng, song cuối cùng, có thêm nguồn lực của Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực dự phòng ngân sách trung ương, cũng như huy động từ ngân sách địa phương…, nên tổng cộng có khoảng 3,043 triệu tỷ đồng đã được giao.
Nếu năm 2025 giải ngân hết 100% kế hoạch, thì tổng nguồn lực đầu tư công được giải ngân trong giai đoạn 2021-2025 sẽ lên tới hơn 3,026 triệu tỷ đồng. Điều quan trọng, vốn đầu tư công đã được bố trí tập trung, có trọng tâm, trọng điểm hơn, dồn lực cho các dự án quan trọng quốc gia, có tác động lan tỏa, khắc phục được tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, nâng cao hiệu quả đầu tư theo đúng mục tiêu, định hướng của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Giai đoạn 2021-2025, số dự án sử dụng nguồn ngân sách trung ương giảm từ khoảng 11.000 giai đoạn 2016-2020 xuống còn khoảng 4.652 dự án, tức là giảm một nửa. Đây là con số rất tích cực, không chỉ được Chính phủ đánh giá cao, mà Quốc hội khi thẩm tra báo cáo của Chính phủ cũng đã ghi nhận.
“Giải ngân đầu tư công đã cải thiện rõ nét. Số lượng dự án từ ngân sách trung ương giảm một nửa so với giai đoạn trước, thể hiện sự tập trung nguồn lực vào các dự án trọng điểm, có tác động lan tỏa”, ông Phan Văn Mãi, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội nhấn mạnh.
Để tạo động lực, phải sử dụng hiệu quả
Bộ tài chính luôn nhấn mạnh với các bộ, ngành, địa phương rằng, khi xây dựng dự toán, cần rà soát kỹ khả năng chuẩn bị Dự án, khả năng triển khai, giải ngân vốn như thế nào, tránh tình trạng xây dựng dự toán vượt khả năng triển khai rồi lại phải xin điều chỉnh giảm kế hoạch.
Nếu được Quốc hội thông qua, sẽ có một ngân khoản lớn được dự chi cho đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030. Vấn đề là, làm sao để sử dụng nguồn lực này hiệu quả.
Khi thảo luận tại tổ, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nhấn mạnh, vì nguồn lực đầu tư công rất lớn, nên để tạo ra động lực, phải quản lý thế nào cho hiệu quả. “Việc tăng tốc độ giải ngân sẽ là yếu tố giúp thúc đẩy tăng trưởng nhanh hơn, tránh tình trạng phân bổ vốn đầu năm, nhưng cuối năm vẫn còn vốn dư lớn, không phân bổ vốn kịp thời. Công trình thì cần vốn mà vốn không đến được với công trình. Vì vậy, hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề rất quan trọng”, Phó chủ tịch Quốc hội nói.
Vị đại biểu của TP. Đà Nẵng cũng nhấn mạnh việc cần phân bổ vốn có trọng tâm, trọng điểm, không nên dàn trải để tránh lãng phí; đồng thời phải chuẩn bị dự án cho tốt, bởi nếu đợi phân bổ kế hoạch đầu tư công xong mới bắt đầu chuẩn bị dự án thì không kịp. “Công tác chuẩn bị đầu tư, tôi nghĩ là một khâu cần phải tập trung đẩy mạnh”, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nói.
Có cùng quan điểm, đại biểu Nguyễn Đắc Vinh (Tuyên Quang) chỉ ra rằng, một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến giải ngân đầu tư công chính là khâu chuẩn bị và lập dự toán chưa tốt. Vị đại biểu này lấy ví dụ về vấn đề đất đai, có dự án chưa rõ đất đai có khả thi hay không, thậm chí biết giải phóng mặt bằng rất khó, nhưng vẫn được đưa vào dự toán, dẫn đến khó khăn trong triển khai và giải ngân.
Trên thực tế, đây cũng là vấn đề được nhắc tới lâu nay và đó cũng là nguyên nhân khiến một số bộ, ngành, địa phương đến thời điểm gần cuối năm, khi không thể giải ngân hết, lại xin điều chỉnh giảm kế hoạch vốn. Bộ Tài chính luôn nhấn mạnh với các bộ, ngành, địa phương rằng, khi xây dựng dự toán, cần rà soát kỹ khả năng chuẩn bị dự án, khả năng triển khai, giải ngân vốn như thế nào, tránh tình trạng xây dựng dự toán vượt khả năng triển khai rồi lại phải xin điều chỉnh giảm kế hoạch.
Để sử dụng hiệu quả vốn đầu tư công giai đoạn 2026-2030, dự kiến, việc bố trí vốn sẽ được thực hiện theo nguyên tắc “có trọng tâm, trọng điểm”, không dàn trải, ưu tiên cho các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia, dự án đầu tư công đặc biệt, dự án đầu tư công khẩn cấp… Cùng với đó, tổng số dự án sử dụng vốn ngân sách trung ương trong giai đoạn này không quá 3.000 dự án, giảm hơn 1.600 dự án so với giai đoạn 2021-2025.
Để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công, ở góc độ khác, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho rằng, cần kết hợp cả đầu tư công, đầu tư tư nhân, đầu tư xã hội để thúc đẩy tăng trưởng. “Đầu tư của tư nhân, đầu tư của xã hội là rất quan trọng”, Phó chủ tịch Quốc hội nói.
Ông nhấn mạnh rằng, đầu tư công là từ nguồn ngân sách nhà nước đã có sẵn, phải thúc đẩy nhanh để tạo động lực cho tăng trưởng, nhưng về lâu dài thì phải thúc đẩy đầu tư xã hội và đầu tư tư nhân. Lý do là, đầu tư công hiện nay không trực tiếp đầu tư vào sản xuất, mà là tạo hạ tầng thiết yếu, tạo động lực phát triển vùng, phải có đầu tư tư nhân, đầu tư xã hội thì mới gia tăng được năng lực sản xuất.