Dự báo khủng hoảng, nhìn từ quá khứ đến tương lai

(ĐTCK) Dịch bệnh Covid-19 đã tàn phá nặng nề nền kinh tế toàn cầu, nhưng liệu thế giới có chứng kiến một cuộc khủng hoảng kinh tế hay không là điều rất khó dự đoán. 
Ảnh Shutterstock. Ảnh Shutterstock.

Khó “tham khảo” kinh nghiệm quá khứ

Ngay cả các đánh giá của giới chuyên môn ngành y về độ nghiêm trọng của dịch Covid-19 tại thời điểm dịch bắt đầu xuất hiện phần lớn đều không chính xác.

Chỉ trong vòng 9 ngày từ ngày 2 - 11/3/2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã thay đổi, chính thức tuyên bố Covid-19 trở thành đại dịch. Các nước sau đó lần lượt công bố về tình trạng khẩn cấp quốc gia.

Hiện tại, số người nhiễm bệnh xác nhận tới ngày 10/6/2020 là hơn 7,3 triệu người, 413.733 người chết; trong đó Mỹ là quốc gia có tiềm lực mạnh nhất thế giới lại đang phải chịu tác động mạnh nhất với hơn 2 triệu ca mắc bệnh và trên 114.000 ca tử vong.

Dự báo khủng hoảng, nhìn từ quá khứ đến tương lai ảnh 1

Tác động của Đại dịch covid-19 tới tăng trưởng của một số khu vực.

Mỹ là quốc gia có quy mô nền kinh tế lớn nhất thế giới, thiết lập “trật tự Mỹ” và có mối quan hệ về thương mại và tài chính toàn cầu. Dịch Covid-19 kéo theo sự suy thoái kinh tế trên toàn thế giới đang là điều rất đáng lo ngại về một tương lai không xa khi những khó khăn dần “thấm” vào nền kinh tế Mỹ.

Một số chuyên gia kinh tế có quan điểm tiêu cực hơn và dự báo một cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ xảy ra, gây ảnh hưởng rất tiêu cực lên giá cả của các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu…

Những lo ngại này cần được xem xét kỹ theo tiến trình lịch sử của các cuộc khủng hoảng trước đó để hiểu được những giới hạn về mặt “hiểu biết” của con người trong những sự kiện phản ánh bản chất này một cách rộng rãi.

Nhìn lại lịch sử, nhân loại đã chứng kiến 11 cuộc khủng hoảng tài chính điển hình (xem bảng). Các nguyên nhân được cho là chính yếu dẫn tới các cuộc khủng hoảng lần lượt như sau:

Một số cuộc khủng hoảng điển hình

- Cơn sốt hoa Tulip ở Hà Lan 1637

- Công ty Nam Dương (South Sea Company) ở Anh 1720

- Đại suy thoái và “ngày thứ Ba đen tối” ở Mỹ 1929

- Khủng hoảng nợ ở các nước Mỹ la tinh đầu thập niên 1980

- “Ngày thứ Hai đen tối” 19/10/1987

- Tân công đầu cơ Cơ chế tỷ giá châu Âu 1992 - 1993

- Khủng hoảng Mexico 1994 - 1995

- Khủng hoảng Đông Á 1997 - 1998

- Khủng hoảng Argentina 2001 - 2002

- Khủng hoảng tài chính toàn câu 2007

- Khủng hoảng nợ của Eurozone 2010 - 2012 

Với cuộc khủng hoảng giá củ hoa tuylip, nạn đầu cơ tài sản đẩy giá củ hoa này lên tới mức phi lý: 40 củ hoa có giá bằng thu nhập của người lao động thủ công lành nghề trong khoảng 666 năm!

Sau đó, giá cả tụt rất mạnh làm “bong bóng” giá hoa vỡ tan, nhiều người lâm vào cảnh phá sản và nền kinh tế Hà Lan chịu cú sốc lớn.  Với cuộc khủng hoảng Công ty Nam Dương tại Anh 1720, Chính phủ mất khả năng thanh toán do vay nợ quá mức.

Trong khi đó, với Đại suy thoái năm 1929 ở Mỹ, nguyên nhân bắt nguồn từ nạn đầu cơ cổ phiếu quá mức, tổng số nợ vay chứng khoán lớn hơn cả tổng lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế.

Ngay cả các ngân hàng cũng sử dụng tiền gửi để mua cổ phiếu dẫn tới tình trạng kẹt thanh khoản khi dân chúng kéo tới rút tiền hàng loạt.

Còn trong khủng hoảng nợ vay tại các nước châu Mỹ-Latin, nguyên nhân bắt nguồn từ việc các nước này sử dụng nợ vay nước ngoài quá lớn để phát triển cơ sở hạ tầng.

Trong sự kiện “Ngày thứ Hai đen tối”, xảy ra vào ngày 19/10/1987, chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones (DJIA) đã mất gần 22% trong một ngày.

Vào cuối tháng 10, thị trường chứng khoán Hong Kong giảm 45,5%, Úc giảm 41,8%, Anh giảm 26,45%, Canada giảm 22,5%. Không có tin tức hay sự kiện nào có thể giải thích đầy đủ cho việc sụt giảm ngoại trừ tâm lý hoang mang, lo lắng của giới nhà đầu tư với các sự kiện vĩ mô thế giới.

Đáng chú ý, cuộc khủng hoảng ở Mỹ giai đoạn 2007 - 2009 có nguồn gốc từ các khoản nợ nhà đất dưới chuẩn.

Giai đoạn trước đó, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã duy trì lãi suất rất thấp, hệ thống quản lý lỏng lẻo và những sáng tạo về các công cụ tài chính như CDO, CDS khiến cho việc sụp đổ mang tính dây chuyền khi Fed thắt chặt tiền tệ, người đi vay không có khả năng trả nợ và từ bỏ luôn tài sản thế chấp.

Cuộc khủng hoảng nhanh chóng lan ra toàn cầu với những quốc gia các quốc gia khác trên thế giới vì niềm tin vào các trái phiếu kém chất lượng này…

Có thể thấy, trong số 11 cuộc khủng hoảng kể trên, không có cuộc khủng hoảng nào xuất phát từ một đại dịch, tức nguyên nhân phi kinh tế, mà đa phần bị ảnh hưởng bởi nạn đầu cơ, bong bóng tài sản và có liên quan tới vấn đề chính sách của các quốc gia.

Dự báo khủng hoảng - nhiệm vụ bất khả thi

Hơn nữa, việc liệt kê các nguyên nhân là sự thiếu sót và rất khó để đưa ra đầy đủ bằng chứng kể từ giai đoạn trước, trong và sau cuộc khủng hoảng, để có những bằng chứng đáng tin thì cần một sự ghi nhận có hệ thống từ tổng quan đi tới chi tiết của tất cả các thành phần kinh tế.

Đây là một chuỗi dài các nguyên nhân - kết quả xuyên suốt theo quá trình tạo ra những cuộc khủng hoảng. Khi có được sự ghi nhận đầy đủ đó cho riêng từng cuộc khủng hoảng, người phân tích phải đặt các dữ kiện cạnh nhau, kết hợp các biến và đưa nhiều kết quả có khả năng xảy ra.

Căn bản khối lượng công việc này là khổng lồ và có thể cho ra rất nhiều kết quả khác nhau, nhưng giá trị của việc dự báo cũng là chưa có tiền lệ hoặc rất khó để đưa ra quyết định dựa trên các dự báo kiểu như vậy.

Bên cạnh đó, thế giới đang phải trải qua tới bốn sự kiện lớn mà đại dịch Covid-19 chỉ là một trong số đó.

Các sự kiện còn lại như chiến tranh giá dầu (giá dầu hợp đồng tương lai tháng 5 đã rơi xuống mức âm 1 phần do sự gián đoạn sản xuất, tiêu dùng), sự gián đoạn của các nền kinh tế, hành động của Fed. Đó là chưa kể tới nhiều sự kiện khác có thể tác động lớn tới kinh tế toàn cầu như căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, chiến tranh lạnh, Brexit…

Tổng thể những sự kiện này sẽ tác động như thế nào tới kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam hay cụ thể hơn là những tài sản mà nhà đầu tư đang nắm giữ là điều không thể dự báo trước được. Nhà quản lý quỹ Howard Marks gần đây đã viết trong bản ghi nhớ mới nhất của mình rằng, cần nhận thức rõ ràng về sự không chắc chắn (uncertainty).

Ông cho rằng, quá khó để có được những kết quả đầu tư cao hơn mức trung bình dựa trên những dự báo và để làm được điều này, cần có những dự báo tốt hơn mức trung bình (tức phần còn lại của thế giới, nơi có những người cũng đang cố gắng làm những việc tương tự như vậy).

Tại sao các nhà đầu tư, tổ chức nghiên cứu, các chuyên gia vẫn tiếp tục làm điều này, dù đây là việc gần như bất khả thi?

Bản chất của con người là tò mò và tâm lý sợ tổn thất luôn luôn hiện hữu. Sự lo lắng thúc đẩy họ phải xem xét, nghiên cứu “tất cả các vấn đề” trong khi không nhận thức được sự giới hạn về trí tuệ của con người.

Kết quả là quy trình nghiên cứu các vấn đề vĩ mô được đơn giản hóa, ngoại suy cho phù hợp với hiện trạng và nhanh chóng đi tới những kết luận, phớt lờ các sự thật chống lại tư duy ban đầu của họ.

“Con người có thể thấy trước tương lai chỉ khi nó xảy ra phù hợp với điều ước của họ và hầu hết các sự thật hiển nhiên có thể bị bỏ qua khi chúng không được chào đón”, George Orwell từng nói.

Thậm chí trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, hai nhà kinh tế học lớn Paul Krugman và Nouriel Roubini lần lượt cảnh báo vào năm 2005, 2006 nhưng thị trường dường như phớt lờ trong bối cảnh kinh tế đang còn hứng khởi, mọi thứ tiếp diễn “không có gì có thể ngăn cản”. 

Các nhà kinh tế học đã đưa ra các khung lý thuyết cũng như các dấu hiệu để cố gắng dự đoán trước một cuộc khủng hoảng.

Chẳng hạn, những dấu hiệu cho thấy có khả năng gây ra một cuộc khủng hoảng tiền tệ theo Dermirg¨uc-Kunt và Detragiache (1998) là tỷ lệ nợ xấu trên tổng nợ vượt hơn 10% hoặc chi phí để giải cứu lớn hơn 2% GDP; theo Lindgren, Garcia và Saal (1996) là hàng loạt ngân hàng vỡ nợ, các công ty tài chính sụp đổ và phải cần đến sự can thiệp của chính phủ; còn theo Liu và Lindholm (2007) là thâm hụt tài khoản vãng lai vượt 5% GDP.

Các nhân tố định lượng rút ra từ những nghiên cứu của các nhà kinh tế học cũng chỉ mang tính tham khảo. Bởi lẽ, tuy suy thoái kinh tế đang diễn ra trên toàn cầu nhưng trong trường hợp này lại không phải do bong bóng tài sản, không phải khủng hoảng nợ công hay chất lượng tín dụng kém gây ra, các doanh nghiệp thậm chí không có nhiều nhu cầu vay mới...

Ở một kịch bản tích cực hơn, lợi nhuận của doanh nghiệp có thể sụt giảm mạnh nhưng sự hỗ trợ lẫn nhau, sự đoàn kết cùng chung tay “thắt lưng buộc bụng” đủ để các thành phần kinh tế “sống lâu hơn” và quá trình phục hồi được sẽ diễn ra nhanh chóng. “Trong nguy vẫn có cơ”, đó là điều dường như tất cả các nhà đầu tư chứng khoán đang... cùng một cách nghĩ.

VOT PARTNERS
www.votpartners.com

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục