Đầu tư tuần qua: Duyệt dự án hơn 4.500 tỷ đồng ở Nghệ An, 4.770 tỷ đồng làm cao tốc Mỹ An-Cao Lãnh

Thủ tướng duyệt chủ trương đầu tư dự án hơn 4.500 tỷ đồng ở Nghệ An; Thủ tướng duyệt Dự án cao tốc Mỹ An - Cao Lãnh trị giá 4.770 tỷ đồng…
Đầu tư tuần qua: Duyệt dự án hơn 4.500 tỷ đồng ở Nghệ An, 4.770 tỷ đồng làm cao tốc Mỹ An-Cao Lãnh

Đó là hai trong số những thông tin về đầu tư đáng chú ý trong tuần qua

Nghệ An trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho dự án 200 triệu USD

Dự án Nhà máy sản xuất linh kiện sản phẩm điện tử và phụ tùng ô tô Ju Teng chính thức được tỉnh Nghệ An trao giấy chứng nhận đầu tư vào khu công nghiệp Hoàng Mai.

UBND tỉnh này vừa tiến hành trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho Dự án Nhà máy sản xuất linh kiện sản phẩm điện tử và phụ tùng ô tô Ju Teng của nhà đầu tư Excel Smart Global Limited đầu tư vào khu kinh tế Đông Nam Nghệ An.

Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung (ở giữa) trao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho đại diện Tập đoàn Ju Teng

Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung (ở giữa) trao Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho đại diện Tập đoàn Ju Teng

Dự án với tổng mức đầu tư 200 triệu USD, được triển khai trên diện tích 1.200.000m2 tại khu công nghiệp Hoàng Mai 1 (thuộc khu kinh tế Đông Nam, TX. Hoàng Mai).

Dự án sản xuất linh kiện sản phẩm điện tử, máy vi tính và thiết bị ngoại vi của máy vi tính; Sản xuất các cấu kiện kim loại, các sản phẩm từ plastic; Gia công cơ khí; Sản xuất phụ tùng, bộ phận phụ trợ cho xe ô tô, xe có động cơ và các sản phẩm cấu kiện khác.

Thời gian hoạt động của dự án đến ngày 26/2/2071 kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Dự kiến, vào tháng 3/2022, dự án sẽ được khởi công và đến tháng 4/2023 sản xuất thử, đến tháng 10/2023 sản xuất chính thức, ông Trung cho biết.

Trước đó vào ngày 27/1/2021, giữa Nghệ An và Excel Smart Global Limited đã ký biên bản ghi nhớ đầu tư dự án và sau gần 1 năm thực hiện các cam kết, với sự nỗ lực của 2 phía thì hôm nay, tỉnh Nghệ An chính thức trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho dự án.

“Đây là một trong những dự án trọng điểm phía Bắc Nghệ An, và với những nỗ lực trong việc thu hút các dự án đầu tư trọng điểm trong thời gian qua, tỉnh Nghệ An đã không ngừng đổi mới môi trường đầu tư, cải cách mạnh mẽ thủ tục để thu hút các dự án lớn, tạo sức lan tỏa, thu hút nhiều dự án vệ tinh hỗ trợ khác, hình thành môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, hợp tác cùng các nhà đầu tư phát triển”, Chủ tịch UBND Nghệ An Nguyễn Đức Trung chia sẻ.

Theo đó, Nghệ An kỳ vọng, dự án này sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho một bộ phận người lao động trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

Đại diện nhà đầu tư, ông Zheng Li Yu - Chủ tịch Quốc tế Ju Teng bày tỏ sự hài lòng về tỉnh Nghệ An và các sở, ngành đã tạo điều kiện cho nhà đầu tư vào tìm hiểu và triển khai dự án trên địa bàn.

Nhà đầu tư cũng cam kết, sẽ thúc đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, sớm đưa dự án hình thành và phát triển đúng như kỳ vọng.

Dự án Cụm công nghiệp Đông Gio Linh 10 năm bất động

Sau gần một thập kỷ, dự án trăm tỷ từng được kỳ vọng sẽ tạo ra động lực phát triển mới cho huyện Gio Linh (tỉnh Quảng Trị) vẫn chỉ là khu đất ngổn ngang.

Hơn 10 năm trước, ngày 1/8/2011, UBND tỉnh Quảng Trị đã có quyết định thành lập Cụm công nghiệp Đông Gio Linh (huyện Gio Linh) với quy mô 70 ha. Đến ngày 25/6/2012, UBND tỉnh Quảng Trị cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư lần đầu cho Công ty Hoàng Khang với Dự án Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật Cụm công nghiệp Đông Gio Linh.

Cụm công nghiệp Đông Gio Linh. Ảnh: TTXVN

Cụm công nghiệp Đông Gio Linh. Ảnh: TTXVN

Đến ngày 5/9/2016, UBND tỉnh Quảng Trị có quyết định về việc điều chỉnh lại diện tích của Cụm công nghiệp Đông Gio Linh, từ 70 ha ban đầu xuống còn 50 ha, tách phần diện tích 20 ha thuộc thị trấn Cửa Việt ra khỏi Dự án để giao UBND huyện Gio Linh quản lý, đầu tư phát triển cụm công nghiệp (nay là dự án Cụm công nghiệp Bắc Cửa Việt).

Đối với 50 ha còn lại, ngày 28/12/2018, UBND tỉnh Quảng Trị tiếp tục ban hành quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án Xây dựng hạ tầng Cụm công nghiệp Đông Gio Linh thuộc Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị (tỉnh Quảng Trị) của Công ty Hoàng Khang. Trong đó, tổng vốn đầu tư dự án là 180 tỷ đồng, thời gian hoạt động 50 năm kể từ ngày 25/6/2012.

Theo kế hoạch, tháng 2/2019 khởi công xây dựng các hạng mục công trình và tháng 2/2021 sẽ hoàn thành đưa vào sử dụng. Thế nhưng đến nay, hình hài dự án vẫn nằm chỉ trên giấy hoặc trên các phối cảnh tổng thể được vẽ ra ban đầu.

Trên thực tế, toàn khu vực được quy hoạch triển khai Dự án vẫn là “đồng không mông quạnh”, với những đụn cát được xới đào ngổn ngang, xen lẫn một ít đất đỏ được doanh nghiệp chở về với dự định san đắp nền đường, nhưng giữa chừng thì đứt đoạn. Ngay sát cổng lối vào, một căn nhà tạm bằng tôn được dựng lên làm lán trại qua đêm cho công nhân trông coi vài chiếc máy múc, máy ủi vẫn đang nằm bất động.

Trước tình trạng dự án giậm chân tại chỗ, gây lãng phí quỹ đất, người dân địa phương và chính quyền sở tại đã nhiều lần kiến nghị UBND tỉnh Quảng Trị xem xét thu hồi.

Ông Lê Ánh Hùng, Chủ tịch UBND xã Gio Việt, huyện Gio Linh cho biết, quỹ đất còn lại của xã rất ít, chỉ còn 9 ha, nên khó khăn trong việc bố trí tái định cư và sắp xếp các khu sản xuất, chế biến hải sản, các lò hấp cá ra khỏi khu đông dân cư. Trong khi đó, phần lớn khu đất dự án gần như bỏ không cả chục năm nay.

“Bà con hết sức bức xúc. Trong nhiều lần tiếp xúc cử tri, đại biểu Quốc hội, HĐND, bà con đã nhiều lần có ý kiến đề xuất cấp trên thu hồi diện tích đất đã giao cho dự án, vì nhà đầu tư không thực hiện đúng quy định của Luật Đất đai. Xã cũng đã đề nghị cấp trên thu hồi một phần diện tích đã giao cho nhà đầu tư, nhưng thực hiện chưa đúng tiến độ và bố trí lại cho địa phương khoảng 20 ha để phục vụ việc giãn dân, xây dựng công trình văn hóa công cộng và làng nghề tập trung”, ông Hùng cho biết.

Theo ông Võ Đắc Hóa, Chủ tịch UBND huyện Gio Linh, qua nhiều lần làm việc với UBND tỉnh và các sở, ban, ngành liên quan, huyện Gio Linh đã đề nghị phải quyết liệt thu hồi dự án. Trong năm 2020, UBND tỉnh Quảng Trị đã có quyết định gia hạn tiến độ cho dự án này đến hết tháng 9/2020, nhưng hết thời hạn, Dự án vẫn “án binh bất động”.

“Tại cuộc họp vừa rồi, huyện cũng tiếp tục yêu cầu thu hồi, nhưng Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh lại đề xuất gia hạn cho nhà đầu tư đến tháng 6/2022. Chúng tôi phản đối quyết liệt. Dự án gì mà làm 10 năm chưa xong, thiệt thòi cho địa phương quá. Trong khi người dân địa phương không có đất sản xuất, kinh doanh, thì doanh nghiệp được giao đất rồi để không và địa phương không thu được đồng ngân sách nào”, ông Hóa nói.

Đáng chú ý, trong khi các hạng mục thi công hạ tầng vẫn giậm chân tại chỗ, thì Công ty Hoàng Khang lại tiến hành quây tôn và khai thác titan “lậu” ngay giữa khu đất dự án và không hoàn thổ, làm hình thành các hố nước sâu. Hậu quả khiến 2 người tử vong, trong đó có một em học sinh.

“Nếu họ không tiếp tục triển khai đầu tư dự án thì tỉnh sẽ thu hồi và chấm dứt Dự án. Về thẩm quyền để thu hồi giấy chứng nhận đầu tư thì Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ tham mưu cho UBND tỉnh thu hồi đất do chậm tiến độ sử dụng đất”, ông Phạm Ngọc Minh, Trưởng ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh Quảng Trị cho hay.

Các khu công nghiệp tỉnh Lâm Đồng đạt kết quả kinh doanh không cao

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng vẫn duy trì, nhưng kết quả không cao.

Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Lâm Đồng vừa có báo cáo gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình xây dựng và phát triển các khu công nghiệp trong năm 2021.

Theo đó, đến nay, trong các khu công nghiệp tỉnh này có 49 doanh nghiệp/Dự án (trong đó có 18 dự án FDI) đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Trong đó, tại Khu công nghiệp Lộc Sơn có 25 dự án (8 dự án FDI) và Khu công nghiệp Phú Hội 24 dự án (10 dự án FDI).

Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong năm 2021 đạt doanh thu 166,11 triệu USD, giá trị xuất khẩu đạt 119,84 triệu USD, nộp ngân sách 1130,4 tỷ đồng.

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng vẫn duy trì, nhưng kết quả không cao.

Những khó khăn gặp phải như việc nhập khẩu máy móc thiết bị từ nước ngoài, việc nhập cảnh của một số chuyên gia vào Việt Nam gặp khó khăn.

Trong một diễn biến khác, tại thời điểm dịch diễn biến phức tạp trên cả nước, tại 2 khu công nghiệp có 27/52 doanh nghiệp hoạt động và xây dựng công trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương án 3 tại chỗ.

Trong tháng 11, đầu tháng 12/2021, tại 2 khu công nghiệp Lộc Sơn và Phú Hội có 6 ca nhiễm Covid-19. Tuy nhiên, Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Lâm Đồng đã chủ động phối hợp với các cơ quan y tế địa phương khoanh vùng, truy vết, ngăn chặn kịp thời, không để lây lan rộng trong khu công nghiệp.

Theo báo cáo của Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Lâm Đồng gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư, thông qua chương trình khuyến nông, 3 doanh nghiệp tại khu công nghiệp đã hỗ trợ vay vốn (không lãi suất) để đổi mới công nghệ với số tiền 1,9 tỷ đồng.

Thủ tướng duyệt Dự án cao tốc Mỹ An - Cao Lãnh trị giá 4.770 tỷ đồng

Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ An - Cao Lãnh giai đoạn 1 dài 26 km, quy mô 4 làn xe sẽ sử dụng vốn vay của Chính phủ Hàn Quốc.

Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định 2203/QĐ – TTg về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ An - Cao Lãnh giai đoạn 1 sẽ sử dụng vốn vay của Chính phủ Hàn Quốc.

Hướng tuyến cao tốc Mỹ An - Cao Lãnh

Hướng tuyến cao tốc Mỹ An - Cao Lãnh

Cụ thể, Dự án do Bộ GTVT đóng vai trò là chủ quản đầu tư này có mục tiêu tổng quát là từng bước hoàn chỉnh mạng lưới giao thông đường bộ kết nối giao thông khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội bền vững, bảo đảm an ninh quốc phòng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và các tỉnh Long An, Đồng Tháp nói riêng

Mục tiêu cụ thể của Dự án là đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ An - Cao Lãnh giai đoạn 1 để phát huy hiệu quả Dự án Kết nối khu vực trung tâm đồng bằng Mê Kông; hoàn thiện, kết nối tuyến N2, đường Hồ Chí Minh và tuyến đường cao tốc Bắc - Nam phía Tây.

Theo Quyết định số 2203, Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ An - Cao Lãnh giai đoạn 1 sẽ xây dựng theo quy mô cao tốc 4 làn xe hạn chế, bề rộng đường nền đường 17m, vận tốc thiết kế 80km/h.

Dự kiến tổng vốn thực hiện dự án khoảng 4.770,75 tỷ đồng, trong đó vốn vay ODA của Quỹ Hợp tác phát triển kinh tế Hàn Quốc là 3.677,22 tỷ đồng (tương đương 158,80 triệu USD) sử dụng để thanh toán chi phí xây dựng, thiết bị; chi phí tư vấn thiết kế kỹ thuật và giám sát thi công (không bao gồm thuế VAT), dự phòng phần vốn ODA; phần vốn đối ứng dự kiến khoảng 1.093,53 tỷ đồng sử dụng để thanh toán thuế VAT (phần chi phí xây dựng, thiết bị; chi phí tư vấn thiết kế kỹ thuật và giám sát thi công), chi phí QLDA, chi phí tư vấn trong nước như: chi phí khảo sát, lập dự án đầu tư, thẩm tra thiết kế kỹ thuật, chi phí thẩm tra, quyết toán dự án hoàn thành, chi phí khác... theo các quy định hiện hành; chi phí giải phóng mặt bằng; dự phòng phần vốn đối ứng, phí dịch vụ.

Trước đó, tại tờ trình số 12805/TTr – GTVT, Bộ GTVT đề xuất Thủ tướng phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ An - Cao Lãnh giai đoạn 1 có chiều dài toàn tuyến khoảng 26,16 km, nằm trọn trong địa phận tỉnh Đồng Tháp, với điểm đầu kết nối với tuyến N2 tại thị trấn Mỹ An; điểm cuối tiếp giáp với điểm đầu của Dự án xây dựng cầu Cao Lãnh.

Thời gian thực hiện Dự án là 5 năm sau khi Hiệp định tài trợ có hiệu lực.

Tín hiệu tốt cho dòng vốn đầu tư năm 2022

Việt Nam sẽ rút ngắn thời gian cách ly đối với người nhập cảnh từ đầu năm 2022, thể hiện nỗ lực của Chính phủ nhằm giảm bớt các hạn chế nhập cảnh và thúc đẩy dòng vốn đầu tư.

Bộ Y tế vừa ban hành Văn bản số 10688/BYT-MT ngày 16/12/2021 về việc phòng, chống dịch Covid-19 đối với người nhập cảnh. Kể từ ngày 1/1/2022, những người nhập cảnh đã tiêm đủ liều vắc-xin hoặc đã khỏi bệnh Covid-19 sẽ tự theo dõi sức khoẻ tại nơi lưu trú trong 3 ngày so với 7 ngày như hiện nay.

Ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Phòng Thương mại Hoa Kỳ (AmCham) tại Hà Nội chia sẻ: “Việc nới lỏng các hạn chế nhập cảnh kịp thời và hiệu quả sẽ giảm bớt gánh nặng đối với lượng khách đến Việt Nam. Quy định này không chỉ góp phần tiết kiệm thời gian và tiền bạc, mà còn giúp việc đi lại thuận lợi hơn. Đây là tín hiệu tốt hứa hẹn thúc đẩy dòng vốn đầu tư vào Việt Nam”.

Đánh giá những tháng cuối năm và tình hình trong tương lai, Bộ phận Nghiên cứu Toàn cầu HSBC nhận định, kinh tế Việt Nam có thể lấy lại nhịp tăng trưởng GDP ở mức 6,8% trong năm 2022 chủ yếu nhờ vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh trở lại, tập trung nhiều vào lĩnh vực sản xuất, từ đó thúc đẩy xuất khẩu, đặc biệt trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam ký trong vòng 2 năm qua bắt đầu mang lại trái ngọt.

Theo ông Seck Yee Chung, luật sư điều hành Công ty Luật Baker & McKenzie, quy định hạn chế nhập cảnh đã ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của nhiều quốc gia tại Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn luôn nằm trong tầm ngắm của các nhà đầu từ nước ngoài. Các công ty cổ phần tư nhân toàn cầu và khu vực vẫn đang tìm kiếm các cơ hội tại Việt Nam. Do các biện pháp giãn cách trong quý III, tăng trưởng GDP năm nay dự kiến ở mức khoảng 3-3,5%.

“Chúng tôi tin rằng, Việt Nam sẽ tăng tốc độ phát triển khi các đường biên giới quốc tế mở cửa hoàn toàn. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, khi các nhà đầu tư nhìn vào các nước châu Á khác (ngoài Trung Quốc) cho các hoạt động sản xuất hậu đại dịch. Các công ty nước ngoài sẽ hướng đầu tư của họ sang nền kinh tế kỹ thuật số và hoạt động mua bán, sáp nhập là cách nhanh nhất để họ khai thác ngành công nghiệp đang bùng nổ này”, ông Chung nhấn mạnh.

Theo một báo cáo của Maybank Kim Eng, sự bùng phát trở lại của virus do các biến thể mới đang là rủi ro lớn nhất, nhưng Việt Nam vẫn có cơ sở lạc quan nhờ tỷ lệ tiêm chủng cao. Hơn 70% dân số Việt Nam đã được tiêm chủng ít nhất một liều và hơn một nửa đã được tiêm chủng đầy đủ tính đến cuối tháng 11/2021. Việc mở lại các biên giới quốc tế sẽ giúp hỗ trợ sự phục hồi, mặc dù ngành du lịch chỉ có thể tái khởi động vào nửa cuối năm 2022.

Hoan nghênh tin tức này, song ông Sitkoff vẫn quan ngại về biến thể Omicron có thể sớm xuất hiện, hoặc có thể đã mặt có tại Việt Nam. Ông đặt câu hỏi: “Liệu Chính phủ có thực sự thực hiện các quy định mới vào ngày 1/1/2022, hay có thay đổi hướng đi tương tự Thái Lan và một số quốc gia khác?”.

Ông Sitkoff cho biết, có những người Việt Nam đang mắc kẹt ở nước ngoài, những Việt kiều muốn về thăm quê hương vào dịp Tết Nguyên đán, những người nước ngoài mong muốn đoàn tụ với gia đình và một số chuyên gia và doanh nhân nước ngoài muốn vào Việt Nam.

“Nhưng chúng ta phải nhìn thẳng vào thực tại và thấy rằng, việc mở cửa biên giới sẽ đi kèm với rủi ro. Tỷ lệ lây nhiễm Covid-19 đang tăng cao đáng lo ngại. Nhiều người sẽ chọn ở gần nhà và sẽ mất thêm thời gian trước khi nhiều khách quốc tế, chuyên gia và nhà đầu tư đến Việt Nam”, ông Sitkoff nói.

Tăng trưởng GDP năm 2021 đạt 2,58%

Với GDP quý IV ước tăng 5,22%, tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 2,58%, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng của năm ngoái, cũng như so với dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Tổng cục Thống kê vừa chính thức công bố, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV/2021 ước tính tăng 5,22% so với cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng trưởng này đã cao hơn tốc độ tăng 4,61% của quý IV năm 2020, nhưng thấp hơn tốc độ tăng của quý IV các năm 2011-2019.

Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,16%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,61%; khu vực dịch vụ tăng 5,42%.

Với kết quả này, ước tính GDP năm 2021 tăng 2,58%. Trong đó, quý I tăng 4,72%; quý II tăng 6,73%; quý III giảm 6,02%; quý IV tăng 5,22%.

Bình luận về con số này, bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho biết, trong bối cảnh dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong quý III/2021 nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh, thì đây là một thành công lớn của nước ta trong việc phòng chống dịch bệnh, duy trì sản xuất - kinh doanh.

Đặc biệt, kể từ sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 128 về thích ứng linh hoạt với dịch bệnh, các hoạt động sản xuất - kinh doanh đã bắt đầu quay trở lại trạng thái bình thường mới. Nhờ vậy, tăng trưởng quý IV mới đạt khá, qua đó giúp tăng trưởng GDP cả năm đạt 2,58%.

Mức tăng trưởng này là thấp, thấp hơn so với mức tăng trưởng 2,91% của năm 2020, đồng thời cũng thấp hơn so với dự báo trước đó của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Hồi tháng 10/2021, khi báo cáo lên Quốc hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo rằng, tăng trưởng kinh tế năm nay sẽ đạt khoảng 3-3,5%.

Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho biết, trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,80%; khu vực dịch vụ tăng 1,22%, đóng góp 22,23%.

Như vậy, động lực tăng trưởng của nền kinh tế tiếp tục nằm ở khu vực công nghiệp.

Theo Tổng cục Thống kê, trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,37%, đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.

Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,24%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 6,21%, làm giảm 0,23 điểm phần trăm do sản lượng dầu mỏ thô khai thác giảm 5,7% và khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 19,4%. Ngành xây dựng tăng 0,63%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.

Trong khi đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng là một bệ đỡ quan trọng cho nền kinh tế, trong bối cảnh cả khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ đều tăng trưởng chậm lại.

Do đợt dịch Covid-19 thứ 4 diễn biến phức tạp từ cuối tháng Tư, khu vực dịch vụ đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tăng trưởng âm của một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế.

Cụ thể, ngành bán buôn, bán lẻ giảm 0,21% so với năm trước, làm giảm 0,02 điểm phần trăm trong tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành vận tải kho bãi giảm 5,02%, làm giảm 0,3 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm mạnh 20,81%, làm giảm 0,51 điểm phần trăm.

Trong khi đó, ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 42,75%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,42%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 5,97%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế năm 2021, Tổng cục Thống kê cho biết, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%.

Về sử dụng GDP năm 2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 2,09% so với năm 2020; tích lũy tài sản tăng 3,96%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,01%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,16%.

Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2021 ước tính đạt 171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động, tăng 538 USD so với năm 2020).

Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2021 tăng 4,71% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2021 đạt 26,1%, cao hơn mức 25,3% của năm 2020).

Bộ Giao thông sẽ là đầu mối thực hiện cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2021 - 2025

Đây là phương án tổ chức thực hiện Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 vừa được Chính phủ trình Quốc hội.

Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể vừa thay mặt Chính phủ, thừa ủy quyền của Thủ tướng ký tờ trình số 568/TTr – CP Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025.

Thảm bê tông nhựa trên tuyến cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận.

Thảm bê tông nhựa trên tuyến cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận.

Đây là tờ trình thứ 4 về Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 kể từ tháng 9/2021 tới nay đã cho thấy sự cầu thị và quyết tâm của Chính phủ đối với công trình cao tốc xuyên Việt này.

Trong tờ trình mới nhất, Chính phủ kiến nghị Quốc hội Quyết định chủ trương đầu tư Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025, với địa điểm triển khai là từ Hà Tĩnh (Bãi Vọt) đến Quảng Trị (Cam Lộ), từ Quảng Ngãi đến Nha Trang (Khánh Hòa), từ Cần Thơ đến Cà Mau.

Toàn bộ tuyến đường thuộc Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 đầu tư khoảng 729 km, chia thành 12 dự án thành phần vận hành độc lập và triển khai theo hình thức đầu tư công. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền thẩm định và quyết định đầu tư căn cứ quy mô của từng dự án thành phần theo quy định của pháp luật về đầu tư công.

Theo phương án của Chính phủ, sơ bộ nhu cầu sử dụng đất của Dự án khoảng 5.481 ha, trong đó đất trồng lúa 2 vụ khoảng 1.532 ha, rừng phòng hộ khoảng 110 ha, rừng sản xuât khoảng 1.436 ha và sẽ GPMB tất cả các dự án thành phần theo quy mô 6 làn xe, các dự án thành phàn trên đoạn cần Thơ - Cà Mau theo quy mô 4 làn xe như quy hoạch đã được phê duyệt.

Sơ bộ tổng mức đầu tư của Dự án là 146.990 tỷ đồng, trong đó, giai đoạn 2021 - 2025 bố trí khoảng 119.666 tỷ đồng, gồm 47.169 tỷ đồng thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 theo Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội, phần còn thiếu 72.497 tỷ đồng sẽ được cân đối từ Chương trình phục hồi và phát triên kinh tế - xã hội và từ nguồn vôn ngân sách đã bố trí cho ngành GTVT trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 - 2025; chuyển tiếp bố trí giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 27.324 tỷ đồng.

Trong tờ trình của Chính phủ lần này về tổ chức thực hiện dự án, Chính phủ đề xuất Bộ GTVT là đầu mối tổ chức thực hiện đầu tư dự án, trừ các dự án trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội có đề xuất riêng.

Như vậy, nếu chủ trương đầu tư Dự án được Quốc hội thông qua vào tháng 1/2022, việc tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi có thể kết thúc vào tháng 9/2022, tạo điều kiện triển khai công tác giải phóng mặt bằng toàn tuyến (dự kiến kéo dài 17 tháng); lựa chọn nhà thầu từ tháng 3/2023 - 6/2023; tổ chức thi công từ tháng 6/2023 đến tháng 12/2025.

Cũng tại Tờ trình số 568, Chính phủ kiến nghị Quốc hội giao Chính phủ hoàn chỉnh hồ sơ chuyển mục đích sử dụng rừng của Dự án, trình ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương trong bước nghiên cứu khả thi; tổ chức triển khai thực hiện Dự án bảo đảm tiến độ, chất lượng và hiệu quả đầu tư theo đúng quy định của pháp luật; xây dựng phương án thu phí để thu hồi vốn hoàn trả vào ngân sách trung ương.

Năm 2021, GRDP Thái Bình tăng trưởng khá trong khu vực Đồng bằng sông Hồng

Ngày 29/12, Cục Thống kê Thái Bình tổ chức họp báo về tình hình kinh tế - xã hội năm 2021 của tỉnh.

Tại buổi họp báo, ông Tăng Bá Phúc, Cục trưởng Cục Thống kê Thái Bình cho biết: Năm 2021, tuy kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 nhưng đã có nhiều dấu hiệu chuyển biến tích cực do các cấp, các ngành, địa phương tổ chức thực hiện tốt phòng, chống dịch bệnh, các hoạt động thương mại, dịch vụ có điều kiện hoạt động trong bình thường mới, sản xuất kinh doanh từng bước được phục hồi.

Ông Tăng Bá Phúc, Cục trưởng Cục Thống kê Thái Bình thông tin tại buổi họp báo

Ông Tăng Bá Phúc, Cục trưởng Cục Thống kê Thái Bình thông tin tại buổi họp báo

Tăng trưởng kinh tế năm 2021, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt 57.112 tỷ đồng, tăng 6,68% so với năm 2020 và đứng thứ 14 về tốc độ tăng GRDP so với 63 tỉnh, thành phố. Công nghiệp – xây dựng đạt 23.388 tỷ đồng, tăng 12,04%; dịch vụ đạt 16.922 tỷ đồng, tăng 3,17% so với cùng kỳ.

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn thể hiện vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm cung cấp đủ nhu cầu lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu trong và ngoài tỉnh, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh xã hội, ổn định tâm lý nhân dân trong đại dịch. Tổng sản lượng thủy sản đạt 271,1 nghìn tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ.

Lĩnh vực sản xuất công nghiệp tiếp tục chịu tác động tiêu cực của đại dịch nhưng vẫn được duy trì ổn định. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 14,5% so với năm 2020; trong đó khai khoáng tăng 3%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 16,5%, sản xuất và phân phối điện tăng 4,9%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác, nước thải tăng 11%.

Tình hình doanh nghiệp năm 2021 có thích ứng tích cực trong ứng phó và phòng chống dịch Covid-19, nhiều thị trường nước ngoài dần mở cửa trở lại, sản xuất được duy trì đảm bảo. Đến ngày 27/12, Sở Kế hoạch Đầu tư đã cấp 828 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp với số vốn 7.974 tỷ đồng.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2021 đạt 2.076 triệu USD, tăng 23,9% so với cùng kỳ. Trong đó kinh tế tư nhân đạt 1.149 triệu USD, tăng 22,4%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 927 triệu USD, tăng 25,8% so với cùng kỳ. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng cao là sắt, thép 189 triệu USD, tăng 1,8 lần; sản phẩm từ sắt, thép đạt 18 triệu USD, tăng 91,6%; xơ, sợi dệt các loại đạt 168 triệu USD, tăng 66,1%; thủy sản đạt 16 triệu USD, tăng 35,7%; dệt may 1.126 triệu USD, tăng 16%;....

Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tỉnh năm 2021 đạt 21.020 tỷ đồng, đạt 143,6% so với dự toán, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa ước đạt 9.900 tỷ đồng, tăng 27,8%;...

Trong năm, nhiều Dự án công trình trọng điểm của tỉnh Thái Bình được tiếp tục triển khai, một số dự án đang đi vào hoàn thiện xây dựng và lắp đặt máy móc thiết bị. Xây dựng nông thôn mới nâng cao tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện theo hướng thực chất và hiệu quả. Đến nay 4 xã được công nhận đạt nông thôn mới nâng cao bao gồm: xã Thụy Phúc, Thụy Chính, Thụy Liên (huyện Thái Thụy); xã Quỳnh Minh (huyện Quỳnh Phụ). Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã có 17 sản phẩm được công nhận 4 sao; triển khai thí điểm 7 mô hình phát triển nông nghiệp.

Năm 2021, các địa phương, doanh nghiệp tạo việc làm mới cho 31.700 người; trong đó, lao động đi làm việc ở tỉnh ngoài 7.170 người, lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 1.230 người.

100% trạm y tế xã, phường, thị trấn đảm bảo an toàn tiêm chủng, an toàn trong phòng, chống Covid-19 theo quy định. Giáo dục và đào tạo đã linh hoạt điều chỉnh lịch học trong điều kiện dịch bệnh được kiểm soát. Chất lượng giáo dục của tỉnh duy trì trong top đầu của cả nước. Trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2021, Thái Bình xếp thứ 12 toàn quốc về điểm trung bình các môn thi. Một trong 10 tỉnh có số điểm 10 nhiều nhất, là tỉnh xếp thứ 6 toàn quốc có điểm môn toán cao nhất.

Cần tới 400.000 tỷ đồng để phát triển mạng lưới sân bay cả nước đến năm 2030

Trong giai đoạn 2021 – 2030, Bộ Giao thông đề xuất đầu tư 6 cảng hàng không mới, nâng tổng số cảng hàng không cả nước lên con số 28 với tổng công suất khoảng 283 triệu hành khách.

Theo thông tin của baodautu.vn, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) vừa ký tờ trình số 13883/TTr – BGTVT đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Sân bay Nội Bài sẽ được đầu tư thêm 1 nhà ga hành khách trong giai đoạn 2021 - 2030.

Sân bay Nội Bài sẽ được đầu tư thêm 1 nhà ga hành khách trong giai đoạn 2021 - 2030.

Đây là dự thảo quy hoạch đã được Bộ GTVT tiếp thu đầy đủ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ ngày 7/12/2021.

Trong phương án quy hoạch mới nhất, Bộ GTVT đề xuất ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng thủ đô Hà Nội (cảng hàng không Nội Bài) và vùng Thành phố Hồ Chí Minh (cảng hàng không Tân Sơn Nhất và Long Thành); từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả 22 cảng hàng không hiện hữu, đầu tư 6 cảng hàng không mới để nâng tổng số cảng hàng không của cả nước đưa vào khai thác lên 28 cảng hàng không, tổng công suất thiết kế hệ thống cảng hàng không đáp ứng khoảng 283 triệu hành khách, đảm bảo trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng hàng không trong phạm vi 100km.

Trong số 28 cảng hàng không giai đoạn 2021 – 2030 có 14 cảng hàng không quốc tế là Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc); 14 cảng hàng không quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau và Côn Đảo);

Trong giai đoạn này, Bộ GTVT đề xuất tiếp tục duy trì vị trí quy hoạch cảng hàng không quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 640/QĐ-TTg ngày 28/4/2011 tại huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng.

Bên cạnh đó, cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực GTVT sẽ nghiên cứu, khảo sát và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc bổ sung quy hoạch, xây dựng cảng hàng không sân bay tại các đảo (như Lý Sơn, Phú Quý,...), quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Về tầm nhìn đến năm 2050, Bộ GTVT đề xuất sẽ hình thành 31 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng hàng không quốc tế (Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc); 17 cảng hàng không quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Cát Bi, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo và Cảng hàng không thứ 2 phía Đông Nam Thủ đô Hà Nội).

Hình thành một số cảng hàng không, sân bay tại các đảo, quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và có điều kiện tự nhiên thuận lợi.

Một điểm nhấn quan trọng khác trong dự thảo quy hoạch lần này là Bộ GTVT đề xuất bố trí các trung tâm logistics tại các cảng hàng không có nhu cầu vận tải lớn hơn 250.000 tấn/năm. Các trung tâm logistics đảm bảo các điều kiện về kho vận và kết nối các loại hình giao thông thích hợp để vận tải hàng hóa tại các cảng hàng không gồm: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Vân Đồn, Cát Bi, Đà Nẵng, Chu Lai, Long Thành, Cần Thơ và một số cảng hàng không khác khi có nhu cầu vận tải hàng hóa đạt tiêu chí nêu trên. Hình thành trung tâm logistics trung chuyển hàng hóa quốc tế tại cảng hàng không Chu Lai.

Theo tính toán, diện tích đất chiếm dụng dự kiến của quy hoạch tổng thể hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 20.378 ha, nhu cầu diện tích đất cần bổ sung thêm khoảng 7.970 ha.

Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 400.000 tỷ đồng (chiếm khoảng 22% nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành), được huy động nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Tại dự thảo quy hoạch lần này, Bộ GTVT dự kiến danh mục Dự án quan trọng quốc gia, dự án ưu tiên đầu tư trong giai đoạn 2021 - 2030 bao gồm đầu tư xây dựng mở rộng, nâng cấp các cảng hàng không quốc tế lớn đóng vai trò đầu mối như: cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 có công suất 25 triệu hành khách/năm; xây dựng nhà ga T3 – cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất có công suất 20 triệu hành khách/năm; mở rộng nhà ga T2 – cảng hàng không quốc tế Nội Bài (nâng công suất lên 15 triệu hành khách/năm); xây dựng đường cất hạ cánh số 3, nhà ga T3 – cảng hàng không quốc tế Nội Bài về phía Nam của Cảng;...

Đầu tư xây dựng mở rộng, xây dựng mới các cảng hàng hàng không tại vùng sâu, vùng xa, vùng núi, hải đảo như: Điện Biên, Sa Pa, Pleiku, Côn Đảo; đầu tư xây dựng, mở rộng các cảng hàng không bảo đảm quốc phòng - an ninh như: Xây dựng khu bay và khu hàng không dân dụng cảng hàng không Thọ Xuân, Phan Thiết; mở rộng các cảng hàng không đáp ứng nhu cầu vận tải: Cát Bi, Vinh, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Phù Cát, Liên Khương ...

Khánh Hòa đặt mục tiêu đến hết tháng 1/2022 giải ngân 100% vốn đầu tư công

Khánh Hòa phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch đầu tư công năm 2021 đến hết ngày 31/1/2022.

Ông Nguyễn Tấn Tuân, Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa vừa yêu cầu các sở, ban, ngành và chính quyền các huyện, thị xã, thành phố quyết liệt tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công (phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch đầu tư công năm 2021 đến hết ngày 31/1/2022) và khẩn trương hoàn thiện, đưa các Dự án trọng điểm của tỉnh (Bệnh viện Đa khoa Thành phố Nha Trang, Dự án Đường Tỉnh lộ 3, Dự án Đập ngăn mặn trên sông Cái Nha Trang, Cụm công nghiệp Sông Cầu) đi vào hoạt động trong năm 2022.

Các khu dân cư ở phía bắc Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Ảnh: Linh Đan

Các khu dân cư ở phía bắc Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Ảnh: Linh Đan

Đồng thời, ông Tuân yêu cầu phải đẩy nhanh tiến độ thẩm định, phê duyệt tiền sử dụng đất đối với các dự án khu đô thị, khu dân cư đã hoàn thành nhiều năm, tránh gây lãng phí, thất thoát nguồn thu từ đất; tạo điều kiện thuận lợi tối đa để thu hút nhà đầu tư thứ cấp vào lấp đầy diện tích các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh đó, Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa cũng yêu cầu các sở, ban, ngành và chính quyền các huyện, thị xã, thành phố tiến hành rà soát, tổ chức lập, từng bước tiến tới phủ kín quy hoạch phân khu xây dựng, quy hoạch phân khu đô thị trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố, làm cơ sở để triển khai các hoạt động đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh.

Ngày 20/12/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 2146/QĐ-TTg phê duyệt điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung TP Nha Trang (Khánh Hòa) đến năm 2025. Theo đó, 3 khu vực của TP.Nha Trang được điều chỉnh cục bộ, gồm: cảng Nha Trang và vùng phụ cận, đảo Hòn Tre - Hòn Một và khu vực Hòn Thị (thuộc địa giới hành chính phường Vĩnh Nguyên, phường Vĩnh Trường và xã Phước Đồng, Thành phố Nha Trang).

Tổng điều chỉnh quy hoạch cục bộ khoảng 1.276,56 ha, chiếm 4,5% diện tích tự nhiên theo Quy hoạch chung TP.Nha Trang đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2012.

Trong đó, chuyển đổi chức năng đất đồi núi khoảng 1.162 ha, đất chưa sử dụng 14,75 ha, đất mặt nước 24,9 ha, đất khu du lịch dịch vụ 64,3 ha, đất giao thông và công trình đầu mối 10,25 ha thành đất trung tâm đô thị du lịch.

Thủ tướng yêu cầu UBND tỉnh Khánh Hòa chỉ đạo tổ chức lập quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết khu vực liên quan đến điều chỉnh cục bộ theo thẩm quyền, bảo dảm quy đúng quy định pháp luật, bảo đảm kết nối khu vực điều chỉnh quy hoạch với các khu chức năng khác, không phá vỡ cấu trúc, định hướng phát triển không gian đô thị; nghiên cứu việc dùng chung hệ thống hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ công cộng của đảo Hòn Tre và đảo Hòn Một; bảo vệ môi trường, cảnh quan vịnh Nha Trang, môi trường sinh thái biển; đảm bảo phù hợp với các quy chuẩn, tiêu chuẩn liên quan và kiến trúc, cảnh quan khu vực; đảm bảo tính thống nhất của các nội dung điều chỉnh cục bộ với các quy hoạch ngành có liên quan (sử dụng đất, lâm nghiệp, vùng vờ, giao thông)...

Ra quân thi công cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1, đoạn từ Hậu Giang đến Sóc Trăng

Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1, đoạn từ thị xã Ngã Bảy (nay là thành phố Ngã Bảy), tỉnh Hậu Giang đến huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng có tổng mức đầu tư 1.681 tỷ đồng.

Sáng nay (30/12), Ban Quản lý dự án 7 (Bộ GTVT) và các đơn vị thi công tổ chức lễ triển khai thi công Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1, đoạn từ thị xã Ngã Bảy (nay là thành phố Ngã Bảy), tỉnh Hậu Giang đến huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.

Các đại biểu thực hiện nghi thức khởi động Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1A, đoạn từ thị xã Ngã Bảy (nay là thành phố Ngã Bảy), tỉnh Hậu Giang đến huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.

Các đại biểu thực hiện nghi thức khởi động Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1A, đoạn từ thị xã Ngã Bảy (nay là thành phố Ngã Bảy), tỉnh Hậu Giang đến huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.

Đây là Dự án được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước với tổng mức đầu tư dự án là 1.681,751 tỷ đồng; trong đó, chi phí xây dựng là 966,272 tỷ đồng.

Tổng chiều dài tuyến thuộc Dự án khoảng 19,8km (phía tỉnh Hậu Giang dài 8,9km, phía tỉnh Sóc Trăng dài 10,9km); quy mô xây dựng đường cấp III đồng bằng, vận tốc thiết kế 80km/h; bề rộng nền đường 20m gồm 4 làn xe chạy; mở rộng và đầu tư mới 5 cầu trên toàn tuyến phù hợp với khổ đường. Thời gian thi công dự kiến trong vòng 1 năm, hoàn thành vào tháng 12/2022.

Ông Đinh Công Minh, Giám đốc Ban quản lý dự án 7 cho biết Dự án khi hoàn thành và đưa vào khai thác sẽ đảm bảo lưu lượng thông xe cho Quốc lộ 1 đặc biệt là đoạn đi qua trung tâm thành phố Ngã Bảy, giảm thiểu ùn tắc và mất an toàn giao thông; đáp ứng yêu cầu hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và góp phần phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng nói riêng và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nói chung.

Ông Nguyễn Duy Lâm - Thứ trưởng Bộ GTVT cho biết, Dự án có ý nghĩa rất quan trọng để dần hoàn chỉnh quy mô toàn tuyến Quốc lộ 1 từ Hà Nội đến Cà Mau theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cũng như góp phần giải quyết những áp lực giao thông ngày càng lớn của các địa phương và khu vực.

“Bộ GTVT yêu cầu Ban Quản lý dự án 7 tiếp tục phải phối hợp chặt chẽ với 2 địa phương khẩn trương hoàn thành toàn bộ công tác GPMB. Bên cạnh đó, chủ đầu tư và các đơn vị tư vấn, nhà thầu phải phát huy tinh thần trách nhiệm cao nhất, xây dựng kế hoạch, phương án thi công một cách khoa học, chi tiết, phù hợp đảm bảo hiệu quả, chất lượng thi công và tổ chức giao thông an toàn, thông suốt”, ông Lâm chỉ đạo.

Bên cạnh đó, lãnh đạo Bộ GTVT yêu cầu chủ đầu tư, tư vấn giám sát và các nhà thầu cần tính toán giải pháp kỹ thuật phù hợp với đặc thù địa chất tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp và tình trạng biến đổi khí hậu của khu vực Tây Nam Bộ; đồng thời phải huy động nhân lực, thiết bị máy móc hiện đại để thi công, tổ chức công trường thích ứng linh hoạt với diễn biến dịch bệnh Covid-19.

Cũng tại buổi Lễ triển khai thi công, cán bộ, công nhân viên của chủ đầu tư, các đơn vị tư vấn, nhà thầu đã quyên góp ủng hộ Qũy phòng chống Covid-19 của tỉnh Hậu Giang và Sóc Trăng, mỗi địa phương với số tiền là 50 triệu đồng.

Thủ tướng duyệt chủ trương đầu tư dự án hơn 4.500 tỷ đồng ở Nghệ An

Dự án “Hạ tầng ưu tiên và phát triển đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu thành phố Vinh”, từ nguồn vốn vay của Ngân hàng thế giới (WB) vừa được Thủ tướng chính phủ phê duyệt.

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư dự án hơn 4.500 tỷ đồng ở Nghệ An

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư dự án hơn 4.500 tỷ đồng ở Nghệ An

Thông tin từ Văn phòng UBND tỉnh Nghệ An cho hay, Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 2212 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án “Hạ tầng ưu tiên và phát triển đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu thành phố Vinh, Nghệ An” từ nguồn vốn WB.

Dự án nhằm giảm thiểu rủi ro úng ngập tại khu vực đô thị và tăng cường khả năng quản lý đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu của thành phố Vinh.

Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng tích hợp và phát triển khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của thành phố Vinh, góp phần phát triển đô thị bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu tại động lực để phát triển kinh tế xã hội toàn diện cho thành phố Vinh và tỉnh Nghệ An.

Cụ thể, mục tiêu của dự án nhằm giảm ngập lụt và thích ứng với biến đổi khí hậu cho thành phố thông qua các hoạt động cải tạo và nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước. Cải thiện điều kiện môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thông qua việc cải tạo và nâng cấp sông Vinh và hệ thống thu gom, xử lý nước thải;

Tăng cường kết nối giữa khu vực trung tâm với các khu vực đang phát triển và cơ sở hạ tầng còn yếu kém, nhằm tạo động lực để thành phố phát triển thông qua việc xây dựng một số tuyến đường kết nối;

Tăng cường không gian xanh cho thành phố thông qua việc xây dựng các hạ tầng không gian công cộng, thông qua việc cải tạo sông Vinh, xây dựng hồ Hưng Hòa 2 cùng hạ tầng công viên; tăng cường năng lực quản lý đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu và kiểm soát ngập lụt tích hợp và chủ động cho thành phố Vinh.

Dự án gồm 4 hợp phần: Đầu tư tích hợp thoát nước, vệ sinh môi trường và kết nối; Mở rộng dung tích chứa để giảm ngập lụt đô thị; Nâng cấp và cải tạo sông Vinh; Phát triển hệ thống và năng lực để cải thiện đô thị thích ứng.

Dự án “Hạ tầng ưu tiên và phát triển đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu thành phố Vinh, Nghệ An” có thời gian thực hiện 6 năm, kể từ ngày Dự án được cấp thẩm quyền bố trí vốn.

Tổng vốn đầu tư Dự án là 194,5 triệu USD, tương đương 4.502 tỷ đồng. Trong đó, vốn vay WB là 129,6 triệu USD, tương đương 3.000 tỷ đồng; vốn đối ứng 1.502 tỷ đồng.

Thủ tướng Chính phủ giao UBND tỉnh Nghệ An tự bố trí nguồn vốn đối ứng theo quy định, đảm bảo thực hiện Dự án hiệu quả, đúng tiến độ và theo quy định hiện hành.

Năm 2022, TP.HCM đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng giao thông

Trong năm 2022, Ban Giao thông TP.HCM sẽ trình phê duyệt dự án và điều chỉnh 38 dự án; Khởi công và thi công 42 dự án; Hoàn thành công tác bồi thường giải phóng mặt bằng 38 dự án.

Ngày 30/12, Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông TP.HCM (gọi tắt là Ban Giao thông) tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2021 và triển khai chương trình công tác năm 2022.

Ông Lê Hòa Bình, Phó chủ tịch thường trực UBND TP.HCM phát biểu tại Hội nghị

Ông Lê Hòa Bình, Phó chủ tịch thường trực UBND TP.HCM phát biểu tại Hội nghị

Báo cáo tại Hội nghị, ông Lương Minh Phúc, Giám đốc Ban Giao thông cho biết, trong năm 2021, Ban Giao thông đã hoàn thành thủ tục phê duyệt Thiết kế bản vẽ thi công - dự toán (TKBVTC-DT) 07 dự án; Hoàn thành thủ tục khởi công 07 gói thầu, dự án; Hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng 19 gói thầu, dự án; Phê duyệt dự án 01 dự án; Phê duyệt chủ trương đầu tư công 02 dự án; Tiếp tục thi công tại công trường 32 dự án; Phê duyệt Quyết toán dự án hoàn thành 13 dự án (05 dự án hoàn thành và 08 dự án đã trình quyết toán Sở tài chính).

Theo ông Lương Minh Phúc, so với các mục tiêu đề ra, các kết quả đạt được đều thấp hơn mục tiêu đã đặt ra. Lý do là năm 2021 là năm chuyển tiếp giữa 2 trung hạn (2015-2020) và (2021-2025). Hơn nữa, nguồn vốn trung hạn năm 2021 - 2025 rất hạn chế nên đã có 30 dự án phải dừng, giãn tiến độ, không được bố trí vốn trung hạn, không thể duyệt TKBVTC-DT và khởi công.

Đồng thời, có 10 dự án tại các địa phương không thể bàn giao mặt bằng đúng tiến độ cam kết, không được bố trí vốn để chuẩn bị đầu tư… Bên cạnh đó, đại dịch Covid-19 với thời gian giãn cách kéo dài đã ảnh hưởng nặng nề đến tiến độ công tác phê duyệt dự án, phê duyệt TKBVTC-DT, bồi thường giải phóng mặt bằng, thi công và quyết toán hoàn thành dự án.

“Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, về phía chủ quan, Ban Giao thông nhận thấy cần phải sáng tạo hơn, quyết liệt hơn và chủ động hơn trong quá trình triển khai dự án theo các mục tiêu đã đề ra. Ban Giao thông sẽ tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án này khi được bổ sung vốn trung hạn và tiếp tục đẩy nhanh tiến độ công tác bồi thường giải phóng mặt bằng trong năm 2022”, ông Lương Minh Phúc nhấn mạnh.

Thông tin về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ năm 2022, Giám đốc Ban Giao thông cho biết, tập thể Ban Giao thông sẽ tập trung hoàn thành 5 mục tiêu, nhiệm vụ chính như: Huy động tổng hợp các nguồn lực, đoàn kết, sáng tạo, vượt khó, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao; Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư, giải ngân đạt tỷ lệ trên 95% kế hoạch vốn được giao năm 2022.

Tiếp tục xây dựng Ban Giao thông ngày càng chuyên nghiệp, hiệu quả, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số; Tập trung phát triển các dự án giao thông mới theo quy hoạch và kế hoạch đã được phê duyệt…

Về chỉ tiêu năm 2022, đại diện Ban Giao thông cho biết, sẽ tiếp tục triển khai đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án. Cụ thể như: Trình phê duyệt dự án và điều chỉnh 38 dự án (18 dự án phê duyệt, 20 dự án điều chỉnh); Khởi công 16 gói thầu, dự án; Thi công hoàn thành 26 dự án, gói thầu; Quyết toán 30 gói thầu, dự án đã hoàn thành; Hoàn thành công tác bồi thường giải phóng mặt bằng 38 dự án.

Theo ông Lương Minh Phúc, để có thể đạt được các mục tiêu trên, tập thể Ban Giao thông sẽ tập trung triển khai 22 nhóm giải pháp, chương trình hành động. Trong đó, kiến nghị UBND TP.HCM tiếp tục duy trì chế độ họp giao ban ít nhất 2 tuần 1 lần với Ban Giao thông để chỉ đạo, xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc liên quan đến tiến độ các công trình giao thông trọng điểm.

Kiến nghị HĐND, UBND TP.HCM xem xét ưu tiên nguồn lực cho các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông của thành phố. Đặc biệt là bổ sung vốn trung hạn 2021 - 2025 các dự án đã được phê duyệt, đủ điều kiện hiện đang chờ nguồn vốn để khỏi công xây dựng.

Kiến nghị UBND Thành phố, UBND các quận, huyện, thành phố Thủ Đức cùng các Sở, ngành liên quan tiếp tục hỗ trợ Ban Giao thông để đây nhanh tiến độ bồi thường giải phóng mặt bằng các dự án giao thông trên địa bàn Thành phố.

Kiến nghị UBND Thành phố và các Sở, Ngành liên quan hỗ trợ Ban sớm được bố trí 1 trụ sở làm việc tập trung cho tập thể Ban trong năm 2022…

“Tập thể Ban Giao thông tin tưởng với thuyền thống ‘đoàn kết, sáng tạo, đi đầu, vượt khó’ của đơn vị, với những thành tựu đạt được trong những năm qua cùng với niềm tin, ý thức trách nhiệm trong công việc của từng cán bộ công nhân viên cùng với sự quan tâm, chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời của lãnh đạo cấp trên. Ban Giao thông sẽ tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục phát triển, hoàn thành xuất sắc mục tiêu, nhiệm vụ công tác đã đề ra trong năm 2022”, ông Lương Minh Phúc nói.

Phát biểu tại Hôi nghị, ông Lê Hòa Bình, Phó chủ tịch thường trực UBND TP.HCM đánh giá cao kết quả mà Ban Giao thông đã đạt được trong năm qua. Cụ thể, trong năm 2021, dù Thành phố thực hiện giãn cách thời gian dài nhưng Ban Giao thông vẫn đảm bảo tiến độ và hoàn thành nhiều dự án hạ tầng giao thông trọng điểm của Thành phố; tỷ lệ giải ngân cũng đạt trên 95%.

Tuy nhiên, trong năm 2022 sẽ là một năm cần chuẩn bị triển khai rất nhiều dự án. Vì vậy, Ban Giao thông phải đoàn kết, phối hợp chặt chẽ với các Sở, ngành và các địa phương để theo sát tiến độ từng dự án. Đặc biệt, phải lưu tâm đến việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình quản lý dự án...

Đồng Tháp kiến nghị nhiều nội dung quan trọng để nông nghiệp phát triển bền vững

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vừa tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết năm 2021 và triển khai kế hoạch năm 2022 với các tỉnh, thành.

Tại điểm cầu Đồng Tháp, ông Phạm Thiện Nghĩa, Chủ tịch UBND tỉnh đã kiến nghị đến Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 06 nội dung quan trọng.

Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Phạm Thiện Nghĩa phát biểu tại điểm cầu Đồng Tháp. Ảnh: Nguyệt Ánh

Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Phạm Thiện Nghĩa phát biểu tại điểm cầu Đồng Tháp. Ảnh: Nguyệt Ánh

Trong đó, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp nhấn mạnh vấn đề chuỗi cung ứng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thế giới và trong nước đã, đang có sự thay đổi và biến động mạnh do đại dịch Covid-19 gây ra, làm giá cả nông sản, vật tư phân bón diễn biến bất lợi cho người sản xuất, dẫn đến thu nhập của nông dân giảm sút đáng kể, do vậy Bộ cần nghiên cứu tham mưu Chính phủ ban hành cơ chế khuyến khích đầu tư thúc đẩy sản xuất vào nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn, góp phần giảm giá thành chi phí sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm và qua đó tăng thu nhập lợi nhuận cho người sản xuất và kinh doanh.

Ông Nghĩa đề nghị cần ưu tiên quy hoạch phát triển năng lượng sạch, năng lượng mặt trời có tiềm năng, nhất là các địa phương thượng nguồn để giảm dần diện tích đất sản xuất nông nghiệp có sử dụng hóa chất để đảm bảo an ninh nguồn nước. Cùng với đó, có chính sách cụ thể cho những hộ dân trồng lúa thực hiện chương trình an ninh lương thực để đảm bảo thu nhập ổn định và tương đồng cho các khu vực sản xuất các loại nông sản có giá trị cao khác. Mặt khác, việc phân bổ chỉ tiêu diện tích sản xuất lúa đảm bảo an ninh lương thực nên dựa trên sản lượng lúa của từng địa phương hằng năm.

Đồng thời cần sớm ban hành khung pháp lý xử phạt nghiêm hành vi mạo danh mã vùng trồng, mã xưởng của doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong lĩnh vực truy xuất nguồn gốc sản phẩm và quản lý mã vùng trồng, mã nhà đóng gói, áp dụng truy xuất nguồn gốc vào quy trình sản xuất, trước tiên thí điểm thực hiện một số địa bàn sản xuất trọng điểm cung cấp nông sản cho thành phố lớn và nghiên cứu thành lập trung tâm bảo quản nông sản và logistics của từng vùng.

Liên quan đến thống kê, ông Phạm Thiện Nghĩa kiến nghị Bộ Kế hoạch Đầu tư chỉ đạo Tổng cục Thống kê thống nhất phương pháp tính toán thống kê giữa ngành nông nghiệp và các Cục Thống kê địa phương; bổ sung chỉ tiêu thu nhập nông nghiệp vào trong chỉ tiêu thống kê địa phương hàng năm để làm cơ sở nghiên cứu, điều hành kinh tế nông nghiệp địa phương.

Tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính biểu dương ngành nông nghiệp đã đạt nhiều thành tựu nổi bật, góp phần vào tăng trưởng dương của cả nước, xuất khẩu nông – lâm – thủy sản lập kỷ lục (48,6 tỷ USD); ngành có nhiều đổi mới, sáng tạo để nâng tầm giá trị nông sản và là bệ đỡ cho nền kinh tế khi dịch bệnh bùng phát cũng như cho phục hồi tăng trường của nền kinh tế.

Thủ tướng đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần coi trọng xây dựng chiến lược, quy hoạch dài hơi theo hướng hiệu quả chất lượng, tiếp tục hoàn thiện thể chế để phát triển nông nghiệp bền vững theo chiều sâu, phát triển dựa vào khoa học công nghệ, chuyển đổi số, nâng cao năng suất lao động. Đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính để thu hút đầu tư và nguồn lực vào nông nghiệp; phát triển nhiều sản phẩm mang thương hiệu quốc gia và đa dạng thị trường xuất khẩu.

Nghệ An đặt mục tiêu thu hút 150.000 tỷ đồng vào năm 2025

Đề án cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025, đặt mục tiêu thu hút khoảng 600 dự án mới.

Ban Thường vụ tỉnh Nghệ An vừa thông qua chủ trương ban hành “Đề án cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025”. Theo đó, tỉnh này đặt mục tiêu giai đoạn 2021 - 2025 thu hút khoảng 550 - 600 Dự án với tổng mức đầu tư 130.000 - 150.000 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khoảng 3 đến 3,5 tỷ USD). Thông tin này được Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An Thái Thanh Quý cho biết.

Nghệ An cũng đang có giải pháp nâng cấp, quy hoạch lại hệ thống cảng biển trong khu vực

Nghệ An cũng đang có giải pháp nâng cấp, quy hoạch lại hệ thống cảng biển trong khu vực

Theo Bí thư tỉnh Nghệ An, mục tiêu của Đề án là tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng tập trung tháo gỡ các nút thắt về hạ tầng, cải cách hành chính, chất lượng nguồn nhân lực; tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, thông thoáng, minh bạch, thân thiện để thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp.

Cùng với đó là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ và nâng cao hơn nữa Chỉ số PCI, PAPI, PAR Index theo hướng bền vững.

Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thu hút các dự án đầu tư trên địa bàn, nhất là các dự án lớn, có tính chất tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện thành công mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX đã đề ra.

Nghệ An phấn đấu đến năm 2025, các chỉ số PCI, PAPI, PAR Index nằm trong tốp 15 cả nước; chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin (ICT index) nằm trong tốp 10 cả nước.

Tỉnh cũng đặt mục tiêu giai đoạn 2021 - 2025 thu hút khoảng 550 - 600 dự án với tổng mức đầu tư 130.000 - 150.000 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khoảng 3 đến 3,5 tỷ USD.

Theo ông Quý, Ban Thường vụ tỉnh Nghệ An vừa có cuộc làm việc và đi đến thống nhất thông qua chủ trương “Đề án cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025”. Nội dung quan trọng của Đề án hướng đến việc tập trung cải thiện môi trường đầu tư, cụ thể có 02 nhóm giải pháp chính, và trong 02 nhóm này được chia ra nhiều nhóm giải pháp cụ thể.

Đó là nhóm giải pháp về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh gồm 5 giải pháp và nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư gồm 5 giải pháp.

Nhìn nhận về môi trường thu hút đầu tư vào Nghệ An hiện nay, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung thẳng thắn, môi trường đầu tư, kinh doanh dù có chuyển biến nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Trên cơ sở đó, năm 2022, Nghệ An chọn chủ đề chuyển đổi số.

Với chủ đề chuyển đổi số, UBND tỉnh Nghệ An cũng đã có yêu cầu tới các sở ngành của địa phương này cần “số hóa” để nắm bắt thời cuộc. Với quan điểm quyết tâm cải thiện một cách thực chất hơn nữa việc giải quyết các thủ tục đầu tư, kinh doanh, trong thời gian thực hiện chuyển đổi số, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung yêu cầu người đứng đầu các sở, ngành vào mỗi cuối tuần có báo cáo nhận bao nhiêu hồ sơ, đề xuất của doanh nghiệp liên quan đến ngành, lĩnh vực của mình phụ trách, đã giải quyết được bao nhiêu.

“Nhà đầu tư cần sự công khai, minh bạch, rõ ràng, các ngành cần hỗ trợ để thực hiện thủ tục nhanh, hiệu quả”, chủ tịch tỉnh Nghệ An nói.

Để cụ thể được các nội dung trên, Thường Trực tỉnh Nghệ An cho biết, sẽ tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chuyên đề liên quan đến 2 nội dung là thủ tục hành chính và đất đai nhằm tạo sự chuyển biến thực chất hơn nữa.

Đồng thời, Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh cũng cần nghiên cứu các dự án có quy mô tổng mức đầu tư, diện tích sử dụng đất từ bao nhiêu trở lên thì làm thủ tục từ trên xuống; tức là người có trách nhiệm thống nhất chủ trương và giao các sở, ngành liên quan cam kết tiến độ thực hiện thủ tục cho nhà đầu tư.

Hạnh Nguyên (tổng hợp)
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục