Mong mỏi từ thực tiễn
Tại Diễn đàn trực tuyến “Nghị quyết 68: Kiến tạo kỷ nguyên vàng cho doanh nghiệp nông nghiệp”, ông Đỗ Quang Hưng, Phó tổng giám đốc thứ Nhất KCN Việt Nam - Nhật Bản (Hải Phòng) thẳng thắn cho biết: “Rất nhiều doanh nghiệp mà chúng tôi tiếp xúc đều ví Nghị quyết 68 như một sự “cởi trói” về cơ chế đất đai. Tuy nhiên, điều họ trông đợi là các hướng dẫn cụ thể để nghị quyết sớm đi vào thực tế”.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ không đủ điều kiện tài chính để mua hoặc thuê đất tại các khu công nghiệp. Giá thuê đất trong các khu này đã tăng hơn gấp đôi trong vòng 5 năm, từ mức 70 - 80 USD/m2 lên tới 200 USD/m2, chưa tính thuế sử dụng đất hằng năm. Với mức giá này, việc sở hữu mặt bằng để xây dựng nhà máy là vô cùng khó khăn với doanh nghiệp nhỏ.
![]() |
Ông Đỗ Quang Hưng, Phó tổng giám đốc thứ Nhất KCN Việt Nam - Nhật Bản (Hải Phòng) chia sẻ tại Toạ đàm. |
Thực tế này khiến nhiều doanh nghiệp buộc phải thuê xưởng tạm bợ ở các vùng xa, thiếu điều kiện vệ sinh và không phù hợp với quy mô sản xuất hiện đại. Ông Hưng đề xuất Nghị quyết 68 nên quy định các khu, cụm công nghiệp dành tối thiểu 20 ha hoặc 20% diện tích đất với giá cho thuê ưu đãi, tương tự mô hình nhà ở xã hội trong đô thị để các doanh nghiệp nhỏ có thể thuê vài trăm đến vài nghìn m2 xưởng, phù hợp nhu cầu thực tế.
Chia sẻ thêm kinh nghiệm thực tế tại khu công nghiệp Việt Nam - Nhật Bản ông Hưng cho biết: “Trước đây chúng tôi có nhiều nhà máy lớn, nhưng hệ sinh thái phụ trợ không phát triển được vì các doanh nghiệp nhỏ không có mặt bằng sản xuất. Nếu được tạo điều kiện thuê đất, mua đất với quy mô phù hợp, họ có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, giúp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa”.
Tuy nhiên, vấn đề không chỉ nằm ở giá đất mà còn ở thủ tục hành chính phức tạp, kéo dài. Ngay cả nhà đầu tư lớn, có năng lực tài chính, cũng mất đến 4 - 5 năm để triển khai được một khu công nghiệp, tính từ lúc xin giấy phép đầu tư, đền bù, giải phóng mặt bằng, đến xây dựng hạ tầng. Điều này làm đất sạch ngày càng khan hiếm, đẩy giá lên cao.
Ông Hưng cũng chỉ rõ nghịch lý hiện nay: “Tại nhiều địa phương, dù khu công nghiệp đã được quy hoạch nhưng mỗi năm HĐND tỉnh chỉ phê duyệt mở rộng một phần nhỏ. Việc “bó cung” này đã tạo ra sự khan hiếm giả và làm tăng chi phí đầu tư, trong khi những doanh nghiệp thực sự cần đất lại phải chờ đợi mòn mỏi”.
Doanh nghiệp nhỏ mong được “để mắt tới”
Bà Tống Thị Ngân, Giám đốc Công ty cổ phần HAQ Hà Nội chia sẻ đầy trăn trở rằng doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực thương mại nông sản, chuyên cung cấp thực phẩm cho các chuỗi siêu thị. Nhưng để có thể phát triển thêm sản phẩm mới, vấn đề lớn nhất là không có đất và không đủ vốn để đầu tư kho bảo quản đúng chuẩn.
Bà Ngân nêu ví dụ: “Chúng tôi phát triển sản phẩm mới như bánh đậu xanh tươi thường có hạn sử dụng rất ngắn. Tuy nhiên, việc chưa đủ vốn để xây kho lạnh đạt chuẩn khiến sản phẩm khó giữ chất lượng trong quá trình vận chuyển. Chúng tôi rất muốn mở rộng sản phẩm nhưng nguồn lực bị hạn chế cả về đất, vốn, kho bảo quản và logistics”.
Theo bà Ngân, điều mà các doanh nghiệp nhỏ mong mỏi nhất lúc này là chính sách “để mắt tới” họ. Nghị quyết 68 rất lớn, rất đúng, nhưng doanh nghiệp cần những hành động cụ thể để có thể tiếp cận chính sách đó, và thực sự có cơ hội vươn lên cùng nông nghiệp Việt Nam.
![]() |
Bà Tống Thị Ngân, Giám đốc Công ty cổ phần HAQ Hà Nội mong muốn chính sách “để mắt tới” doanh nghiệp nhỏ. |
Từ góc nhìn chính sách, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long nhận định: “Nguồn lực đất đai, cùng với vốn, là hai rào cản lớn nhất khiến khu vực kinh tế tư nhân chưa thể phát triển như kỳ vọng. Nếu không cởi trói được hai yếu tố này, Nghị quyết 68 sẽ khó phát huy hiệu quả”.
Ngoài việc ban hành chính sách đúng đắn, điều quan trọng hơn là thực thi phải kịp thời và hiệu quả. Theo đó, phải có quy định trách nhiệm rõ ràng, có cơ chế giám sát, đặc biệt cần ra điều kiện tiêu chuẩn phù hợp chứ không cào bằng giữa nông nghiệp và các ngành khác.
Vị chuyên gia đề xuất 4 giải pháp cụ thể: Thứ nhất, phát triển quỹ đầu tư chuyên biệt cho nông nghiệp. Thứ hai, mở rộng tín dụng xanh. Thứ ba, cải cách cơ chế tín dụng dành riêng cho nông dân. Thứ tư, hình thành các quỹ đồng đầu tư giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
Ông Long đặc biệt nhấn mạnh yếu tố thực thi chính sách, vốn là điểm yếu cố hữu trong cải cách nông nghiệp. Chính sách đúng là cần thiết, nhưng điều quan trọng hơn là thực thi nhanh, có quy định trách nhiệm rõ ràng và giám sát cụ thể, đồng thời kiến nghị phát triển các cơ chế đặc thù về tài chính, thuế, tín dụng; mở rộng tín dụng xanh và quỹ bảo hiểm đầu tư chuyên biệt cho nông nghiệp.
Có thể thấy, Nghị quyết 68 mang theo kỳ vọng lớn về việc cải tổ mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nông nghiệp. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu, điều cấp thiết là phải tháo gỡ điểm nghẽn đất đai một cách thực chất thông qua chính sách đặc thù, hậu kiểm hiệu quả và phân bổ quỹ đất minh bạch, công bằng cho mọi loại hình doanh nghiệp.
Chỉ khi doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là doanh nghiệp nội địa có cơ hội tiếp cận đất đai, hạ tầng và vốn với chi phí hợp lý, thì “kỷ nguyên vàng” mà Nghị quyết 68 mở ra mới có thể đi vào thực tế.