Sau chuyến phượt Hải Vân từ Đà Nẵng ra Lăng Cô, chúng tôi quyết định dành cả chiều đó để lang thang chụp ảnh bên Đầm Lập An. Và từ đây, những trải nghiệm bất ngờ, thú vị ngoài mong đợi bắt đầu.
Từng nghe dân tình ca ngợi hoàng hôn trên Đầm Lập An đẹp tuyệt trần. Tôi thuyết phục cậu em dành buổi chiều và tối để chơi và ăn ở đó. Bữa đấy, trời Huế bỗng đổ cơn mưa lớn.
Vốn sợ mưa Huế từ những câu thơ của cụ Nguyễn Bính cho đến trải nghiệm cá nhân: “Giời mưa ở Huế sao buồn thế!/Cứ kéo dài ra đến mấy ngày”, nhưng lần này thì khác, tôi khá tự tin vì Lăng Cô còn cách “lõi” Huế khá xa, lại gần đèo Hải Vân nên chắc hẳn, cơn mưa chỉ thoáng qua.
Đầm Lập An sau cơn mưa. Ảnh: Thành Nguyễn.
Cuối cùng tôi đúng, trận mưa chỉ kéo dài chừng một giờ đồng hồ, từ khoảng 14h – 15h. Tạnh mưa, chúng tôi lấy xe chạy quanh đầm. Đúng như câu nói, sau cơn mưa, trời lại sáng. Và theo cách diễn đạt của cụ Huy Cận trong “Tràng Giang” thì đây là lúc mà “nắng xuống, trời lên sâu chót vót”.
Trời như cao rộng thêm ra, ánh nắng cố xuyên qua những đám mây còn sót lại để rọi thẳng xuống đầm, xuống núi. Đâu đó, vài ngư dân cào nghêu, bắt cá. Đầm và núi hòa lẫn vào nhau trong cái màu xanh thẫm, như một bức tranh thủy mặc. Điểm xuyết vào đó là những nét chấm phá của những chiếc rớ (vó cất cá tôm loại lớn), vài bóng người lẻ loi, nhỏ bé trong cái không gian mênh mang rộng lớn.
Cào nghêu trên đầm. Ảnh: Thành Nguyễn.
Tôi và cậu em cứ thế vừa chạy quanh đầm, vừa chụp ảnh. Miệng thì không ngớt buông những lời ngưỡng mộ với cảnh vật nơi đây. Bữa đó, có cả cặp cô dâu, chú rể ra đầm chụp ảnh cưới. Tôi nghĩ, họ sẽ có một bộ ảnh đẹp vô cực chốn này.
Sau khi lượn được nửa vòng hồ, đoạn từ gần lối vào hầm đường bộ đèo Hải Vân ngược lại chỗ tiếp giáp với đường quốc lộ 1A, chúng tôi quyết định làm quen gia đình một ngư dân và thuê thuyền chạy một vòng quanh đầm.
Phi là "hướng dẫn viên" bản địa đầu tiên chúng tôi gặp. Ảnh: Thành Nguyễn.
Phi, sinh viên năm nhất đại học ở Đà Nẵng vừa điều khiển chiếc xuồng máy vừa giới thiệu với chúng tôi về những vuông nuôi hàu, những rớ bắt tôm cá của người dân quanh đầm. Chiếc xuồng nhẹ lướt đi trên mặt đầm trong tiếng máy đều đều, giữa những hàng cọc nuôi hàu bằng gỗ Bạc Hà. Thi thoảng, từng đàn cá nhỏ giật mình nhảy lao xao trên mặt nước, vảy bạc lấp lánh. Chúng nhảy cùng hướng di chuyển của xuồng, cũng giống đám cá heo vui tính, rạn người trên biển mà tôi bắt gặp đâu đó trên ti vi.
Càng ra xa, nước đầm càng trong hơn. Đưa tay vục một ít nước để nếm thử và rửa mặt cho tỉnh táo, tôi còn nghe vị mặn mòi, thảng cả mùi muối và cá tôm trên miệng.
Đầm Lập An sau cơn mưa. Ảnh: Thành Nguyễn.
Đi chán, Phi ghé xuồng vào một rớ giữa hồ cho chúng tôi leo lên chơi. Và “cú bẻ lái” cho buổi trải nghiệm bắt đầu từ đây. Phi bảo, tầm 5 giờ chiều, các chủ rớ sẽ đánh xuồng ra hồ và bắt đầu một đêm “thử vận may”. Nếu chúng tôi muốn, khi vào bờ, Phi sẽ giới thiệu cho ông chú để xin đi cùng.
Từ một sự tình cờ như thế, cả tôi và cậu em đều không ngờ chuyến đi xuồng giữa lòng hồ là màn dạo đầu cho một cuộc vui đang sắp sửa.
Đầm là nơi nuôi sống nhiều thế hệ người dân nơi đây. Ảnh: Thành Nguyễn.
Ghé bờ, chúng tôi được giới thiệu và làm quen cùng Vương, người sẽ đi rớ đêm đó. Sau khi hiệp đồng về nội dung chính là trải nghiệm làm ngư dân, chúng tôi ghé nhà Vương chờ anh chàng đi chuẩn bị đồ.
Vương là con thứ 3 trong gia đình gồm 3 anh em trai, 1 cô em gái. O Phương, mẹ Vương kể: Trước có nhiều giai đình làm rớ, nhưng giờ ngày càng ít tôm cá, nên nhiều gia đình cũng bỏ. Giờ chỉ còn vài hộ. Riêng với gia đình O Phương, đầm là nơi nuôi lớn 4 người con, nên dù khó, O vẫn không nỡ bỏ nghề. Riêng từ năm 2001 đến nay, nhiều gia đình mở mang thêm lĩnh vực mới là nuôi hàu ngay trên mặt đầm để tăng thêm thu nhập.
Thả lốp xe nuôi hàu. Ảnh: Thành Nguyễn.
Câu chuyện nuôi hàu cũng là bước chuyển để thích nghi hơn với những thay đổi khi hầm đừng bộ Đèo Hải Vân được đưa vào sử dụng. Thời điểm những năm trước 2000, sản lượng hải sản khai thác được từ đầm cũng gấp khoảng hơn 2 lần hiện tại. Ngày nay, theo người dân ở quanh đầm cho biết, lượng nước đã bị giảm sút nhiều.
Nguyên nhân là do các mố cầu dẫn lên hầm đường bộ làm cản trở dòng chảy, chính việc không hoàn trả mặt bằng đường dẫn nước vào đã khiến diện tích cửa đầm bị giảm, nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến lượng hải sản ra vào đầm theo con nước.
Hoàng hôn. Ảnh: Thành Nguyễn.
Vừa kể chuyện, O Phương vừa chuẩn bị đồ đạc cho chúng tôi ra rớ. Tưởng đơn giản mà cũng lỉnh kỉnh ra trò. Ngoài các đồ như bình ắc quy, bóng đèn, cơm nước, hôm đó, chúng tôi còn mang theo 1 thùng bia Huda khơi dòng cảm xúc, một xô đá, một bếp gas mini, ít củi, mỳ tôm, bát đũa để chuẩn bị cho bữa tiệc giữa giời, giữa đầm.
Tôi còn mạnh dạn đề nghị, để thêm vui, ít nhất phải bố trí từ 4 – 5 người cho đủ mâm bát, có thế cuộc trò chuyện giữa đêm mới thú vị. May thay,mong muốn này của tôi được đáp ứng bằng sự bộc trực, cởi mở của những người “địa chủ”. Hôm đó, ngoài tôi, cu em đồng nghiệp, Vương, còn có cả anh trai Vương tên Ty cùng đi. Kể cũng đủ cho một mâm.
Cầu vồng kép, một cảnh tưởng hiếm gặp.
Đón chúng tôi lúc lên đường là một mặt hồ sóng sánh ánh hoàng hôn. Trên đèo Hải Vân, sau cơn mưa là khung cảnh diễm lệ, đẹp đến khó tả: Một cầu vồng kép vồng trên đỉnh núi, trong ánh nắng chiều. soi bóng xuống mặt hồ xanh thẫm.
Bắt đầu chuyến trải nghiệm cùng anh em Ty (áo xanh), Vương (áo cam). Ảnh: Thành Nguyễn.
Chúng tôi nhanh chóng tập kết hết đồ đạc lên chiếc xuống máy. Ngoài lỉnh kỉnh những đồ mang theo, xuồng máy còn phải gánh thêm 2 chiếc thuyền thúng, là phương tiện đi lại của anh em Ty, Vương. Ra đến giữa hồ, chúng tôi ở lại rớ của Vương, Ty chèo thuyền thúng sang một rớ khác cách đó chừng 2 trăm mét.
Chúng tôi nghỉ ngơi một lúc chờ trời tối hẳn. Đốt một điếu thuốc cho khói bay lãng đãng, tôi đưa mắt khắp hồ. Lúc này, tà dương đã tàn, nhường chỗ cho mảnh trăng non phía đèo dần lên cao. Trên mặt hồ, vài cánh chim biển bay chấp chới để chờ khai tiệc. Trò chuyện thêm một lúc, buổi trải nghiệm chính thức bắt đầu.
Bữa đó rằm, chúng tôi được thiên nhiên đãi quả là không tệ. Ảnh: Thành Nguyễn.
Vừa làm, Vương vừa kể. Cứ tầm này bọn em sẽ ra rớ, lắp hoặc thay bóng điện, đợi khi trời đủ tối sẽ hạ rớ, thắp đèn để dụ cá tôm đến.
Bữa đó, Vương mang theo 4 cái bóng đèn mới. Sở dĩ phải thay mới bóng đèn để tăng độ sáng thu hút cá tôm tốt hơn. Bóng đèn cũ đem đổi lại cho cửa hàng, mỗi lần như vậy mất 15.000đ/lần đổi bóng.
Trong lúc chờ trời tối hẳn, Vương tranh thủ dạy tôi tập chèo thuyền thúng. Ban đầu, chông chênh lắm, chỉ sợ thuyền lật, nhưng sau khi được cầm tay chỉ việc, hiểu nguyên lý, tôi cũng có thể chèo thuyền theo ý mình, với tốc độ khá nhanh. Nhanh đến mức cả Vương cũng phải ngạc nhiên.
Thu hoạch hàu lốp xe. Ảnh: Thành Nguyễn.
Bữa đó là rằm, trăng tròn, to, căng đầy. Càng muộn, trăng càng lên cao và sáng. Khi đó trên mặt hồ, chỉ còn lại những ngọn đèn của rớ. Xa xa, là ánh sáng le lói của thôn làng, của đường dẫn lên hầm. Cách vài km là vài nhà hàng lớn được xây dựng ngay trên mặt hồ, bữa đó hẳn là có tiệc sinh nhật hay teambuilding của nhóm bạn nào đó, tiếng nhạc từ xa vọng lại nghe rộn rã, khiến cái không gian khuya vắng trên hồ cũng bớt cô liêu.
Vương chèo thúng đưa chúng tôi đi cắt hàu. Trên đầu là ngọn đèn rọi bằng ắc quy. Dù là dân biển, chẳng lạ lẫm gì với các vuông nuôi hàu, nhưng Vương cũng rất cẩn thận và luôn miệng dặn chúng tôi tránh để hàu cứa đứt tay, chân.
Các thân gỗ Bạc Hà được đóng sâu xuống lòng hồ. Ảnh: Thành Nguyễn.
Các hộ dân nuôi hàu trên Đầm Lập An có cách nuôi trồng khá thu vị. Các cọc bằng thân cây Bạc Hà được đóng xuống lòng hồ, phần nhô lên so với mặt nước từ vài chục cm cho đến cả mét. Hàu ở đây có 2 loại, hàu sữa và hàu lốp xe. Hàu sữa thì được nhập giống từ Quảng Ninh, mỗi vỏ hàu sẽ được cấy từ 4 – 5 con hàu giống.
Một lô gồm khoảng 300 vỏ hàu giống như thế có giá khoảng 4 triệu đồng. Sau khi nhập giống về, người dân sẽ buộc vào các dây ni lông, mỗi túm hàu giống cách nhau chừng 30cm, cả đoạn dây dài khoảng 1,5m chìm trong mặt đầm. Với hàu sữa, người dân thường thả từ tháng 4, đến tầm tháng 9, tháng 10 là khai thác tốt. Hàu lốp xe thả rải rác từ cuối tháng 3 đến tháng 5, dịp Tết là thu hoạch.
Một rớ như thế này đầu tư mất khoảng 30 triệu. Ảnh: Thành Nguyễn.
Với hàu sữa, với mỗi 4 triệu tiền giống, nếu thuận lợi có thể cho lãi khoảng 30 triệu. Còn hàu lốp xe, đây được coi là đặc sản ở Đầm Lập An. Hàng năm, người dân đem các lốp xe cũ treo thành dây vào các cọc đóng xuống lòng hồ, để tự nhiên trong 1 năm (hên xui theo tự nhiên), nếu “được mùa” thì với 1.000 lốp, cũng lãi khoảng 40 triệu. Tuy nhiên, nuôi hàu lốp trông cậy vào may rủi từ thiên nhiên nhiều. Năm nào không có hàu thì lại phải vớt lốp lên, cọ rửa, vệ sinh sạch để sang năm lại thả xuống hồ. Hàu lốp hiện có giá bán cao gấp 3 lần hàu sữa do thịt dai, chắc và thơm hơn.
Sau khi cắt xong một chậu hàu và ít chép chép, chúng tôi trở lại rớ.
Sau vài vòng quay của chiếc tời, chiếc rớ được cất lên khỏi mặt nước, chỉ còn phần đáy chìm trong hồ, như làm tăng thêm độ hồi hộp của những người lần đầu tham gia mẻ cất như tôi. Trong lúc rớ được từ từ kéo lên khỏi mặt nước, đàn chim biển đua nhau lao xuống liên hoan. Thấy bóng cá tôm trên mặt rớ, chúng lao xuống tự nhiên như “người nhà”. Bữa tiệc của cả người và chim bắt đầu như thế.
Cất rớ. Ảnh: Thành Nguyễn.
Thoăn thoát, Vương đi thúng ra bụng rớ để thu hoạch. Mẻ đầu Vương mang về khá nhiều tôm, một ít ghẹ, vài con mực và cá nhỏ. Vương bảo, may ban nãy có mây che hết trăng nên mới được nhiều vậy, chứ lát nữa, nếu trăng sáng thì đèn của mình chẳng mấy tác dụng, cá tôm cũng ít hẳn.
Lựa tôm, cá. Ảnh: Thành Nguyễn.
Quả vậy, mấy mẻ sau thành tựu chúng tôi thu lại cũng ít hơn. Nhưng với những gì đã thu hoạch được thì đã là quá nhiều. Chúng tôi nhanh chóng nhóm lửa. Giữa hồ, củi rừng rực cháy. Trên trời, trăng sáng lung linh.
Nướng tôm trên thuyền. Ảnh: Thành Nguyễn.
Sau khi cời được một đống than, chúng tôi bắt đầu nướng tôm, mực, cá và khui bia. Mọi thứ cứ giản dị, mộc mạc, nhưng lại ngon miệng vô cùng. Câu chuyện cũng theo đó mà đậm đà thêm mãi. Vui hơn là Ty cũng mang đồ sang. Ông chú rớ bên cạnh cũng chèo thuyền qua, nhỏ to tâm sự. Bữa tiệc ở resort ngàn sao mui trần diễn ra như thế.
Sau tiết mục nướng tôm, mực và cá, khi than đã tàn, Vương làm tiếp tiết mục “Nổi lửa lên em”, chiếc bếp gas mini nhanh chóng làm thỏa mãn những đôi mắt háo hức, những cái miệng thòm thèm bằng nồi hàu luộc, tôm luộc. Cuối cùng là một nồi mỳ tôm chất hơn nước cất, ăm ắp tôm cá. Mọi thứ đều mộc, chẳng cần gì gia vị, mà cái ngon ngọt đến giờ khi tôi viết bài vẫn như quẩn quanh nơi đầu lưỡi.
Bữa đó, cu em đi cùng phấn khởi nhất. Hắn bảo: Cả đời em, chưa bao giờ được ăn mỳ tôm có nhiều tôm thế, hơn hẳn cái loại mỳ bao xi măng 2 tôm hay 4 tôm ở siêu thị.
Một so sánh thật thú vị, có lẽ nó đến từ sự cao hứng khi được trải nghiệm cuộc sống đêm của người dân làng chài.
Cuộc vui của chúng tôi kéo dài đến đâu khoảng hơn 1h sáng. Bữa đó, mấy anh em chọn ngủ ngay lòng thuyền. Trước lúc ngủ lại là một cuộc chuyện dài. Vương hỏi, tôi kể, Vương đem chuyện đời, chuyện sinh kế ra bộc bạch, còn tôi cũng góp vui bằng dăm ba câu tếu táo, bông đùa.
Vương bảo, để cất được một cái rớ giữa hồ, nếu thuê ngoài mất 30 triệu, gia đình hỗ trợ thợ thuyền cùng làm thì hơn 20 triệu. Và cứ khoảng 4 năm sẽ phải thay các chân rớ 1 lần. Có năm, bão thổi rớ đổ gục, lật thuyền, trôi thúng lại phải làm lại rớ, chữa lại thuyền, mua thúng mới, cũng tốn kém lắm. Làm rớ đêm vui nhưng cũng mệt vì mất ngủ. Mỗi đêm đi rớ sẽ bắt đầu từ khoảng 17h hôm trước đến 5h ngày hôm sau, xen kẽ giữa quãng thời gian đó là hơn chục lần cất, cứ khoảng 1 giờ lại cất rớ một lần.
Người dân kiểm tra rớ trước buổi "cất đêm". Ảnh: Thành Nguyễn.
Nghề làm rớ như Vương kể cũng khá vất vả. Thời gian làm được nhiều là từ tháng 3 đến tháng 9 hàng năm, trung bình 1 tháng đi được khoảng 20 ngày. Tháng nhiều, tháng ít, trung bình mùa hè cũng được khoảng từ 8 – 10 triệu đồng tiền tôm cá. Mùa Đông thì vất vả hơn nhiều vì gió bão, có khi cả tháng chỉ đi rớ được dăm ngày, trong cái rét cắt da, cắt thịt. Bù lại, hôm nào trúng mánh được nhiều tôm cá, thì có khi vài buổi đi đó cũng bằng cả tháng mùa Hè.
Kể về các chuyến đi rớ, gương mặt, ánh mắt Vương vui lạ thường. Vương bảo, ngày trước, khi chưa chịu nhiều biến đổi khí hậu, có bận, bão về, cá tôm nhiều ăm ắp cả lòng thuyền, cứ 15 phút lại nâng rớ một lần mà vẫn nặng trĩu. Những lần như thế, cả nhà vui đến mất ngủ.
Làm sạch hàu. Ảnh: Thành Nguyễn.
Hay khoảng những năm 90, đi rớ đêm chỉ cần bắt được 1 – 2 con tôm tú mẹ thì chẳng khác gì bắt được vàng. Một con tôm tú mẹ ngày đó dài hơn gang tay, nặng chừng 2 lạng có giá đến 1,5 triệu đồng, bằng mấy chỉ vàng. Có ông chồng đi rớ đêm mang tôm tú mẹ về, bà vợ mừng quá… ngất luôn.
Trong câu chuyện của Vương, dường như những ký ức lung linh, về những tháng ngày cá tôm chất ngất vẫn hằn sâu. Và giờ, dù đó chỉ còn là ký ức vang bóng một thời, cuộc mưu sinh trên Đầm Lập An cũng vất vả hơn trước, thì những người như Vương dường như vẫn xác định thủy chung một lòng gắn bó.
Bình minh. Ảnh: Thành Nguyễn.
Bữa đó, tôi khuyên Vương nên đầu tư thêm một chút, chỉ một chút thôi để trở thành người tiên phong trong việc phát triển mô hình trải nghiệm ngư dân trên lòng Đầm Lập An, thêm ít áo phao, làm thêm vài chỗ ngồi nơi chân rớ, sửa sang lại lòng thuyền cho sạch sẽ, an toàn hơn,… Nhưng quan trọng nhất, vẫn phải giữ được cái chất trải nghiệm thực, không màu mè. Bữa đó, chúng tôi nói với nhau nhiều lắm về một kế hoạch làm du lịch lòng đầm mà nếu được, Vương sẽ là người lĩnh sướng.
Đầm Lập An như mang một bộ mặt khác mỗi lúc bình minh, hoàng hôn. Ảnh: Thành Nguyễn.
Sớm hôm sau, khi hừng đông đang lấp ló ngoài phía biển, chúng tôi thu dọn đồ về bến. Làng quê yên ả sau giấc ngủ dài, những bóng nhà, bóng cây, như những hình cắt giấy màu đen in trên nền hừng đông màu đỏ ối. Như hứa hẹn một điều gì đó, thật gần gũi, thân thiện, nhưng cũng mới mẻ, tinh khôi.