Đây là nhận định được các chuyên gia đưa ra tại Hội thảo về chất lượng điều kiện kinh doanh do Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương (CIEM) tổ chức sáng ngày 27/2 trong khuôn khổ Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform).
Số liệu được CIEMcông bố tại hội thảo cho thấy, tính đến hết năm 2019, đã có hơn 50% số điều kiện kinh doanh được cắt giảm. Tỷ lệ doanh nghiệp phải xin giấy phép kinh doanh có điều kiện đã giảm từ 58% trong năm 2018 xuống còn 48% trong năm 2019. Trong khi đó, số doanh nghiệp gặp khó khăn khi xin giấy phép kinh doanh có điều kiện cũng đã giảm từ 42% năm ngoái xuống còn 34% trong năm 2019.
Một số quy định tại các văn bản liên quan đến điều kiện kinh doanh về các tiêu chí không phù hợp, mang tính hình thức cũng đã được bãi bỏ, cụ thể như Nghị định số 25/2018/NĐ-CP về hoạt động in bỏ yêu cầu về trình độ đối với người đứng đầu cơ sở in.
Điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch cũng đã bỏ yêu cầu người quản lý, nhân viên được tập huấn về nghiệp vụ du lịch. Điều kiện kinh doanh đối với việc thành lập một số loại hình cơ sở giáo dục đã bỏ yêu cầu phù hợp với quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục của địa phương. Bãi bỏ điều kiện kinh doanh đối với Sản xuất mũ bảo hiểm cho người đi xe mô tô, gắn máy…
Các chuyên gia trao đổi tại hội thảo.
Đánh giá về kết quả cắt giảm, bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Ban Nghiên cứu Môi trường Kinh doanh và Năng lực Cạnh tranh tại CIEM cho biết các điều kiện kinh doanh quy định chung chung, thiếu rõ ràng, can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc dễ tạo sự tùy ý trong thực thi đều đã được cắt bỏ.
Bên cạnh đó, điều kiện kinh doanh trùng lặp cũng đã được cắt bỏ và chuyển sang quản lý theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) và Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN). Một số điều kiện kinh doanh cũng đã được sửa đổi theo hướng giảm bớt yêu cầu, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thực chất về mức độ cải cách các quy định về điều kiện kinh doanh trong thời gian qua, bà Thảo cho rằng, điều kiện kinh doanh được cắt bỏ chủ yếu dưới hình thức đơn giản hóa, ít cắt bỏ, giảm mức độ yêu cầu về số lượng nhân sự hoặc giảm yêu cầu về quy mô diện tích của cơ sở vật chất, thể hiện dưới hình thức sửa đổi. Hiện tại, vẫn còn một số điều kiện kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý, không đạt hiệu quả quản lý, thiếu rõ ràng.
Theo bà Thảo, mặc dù đã đạt được một số hiệu quả nhất định song những vướng mắc về rào cản về điều kiện kinh doanh vẫn còn phổ biến. Đặc biệt, cảm nhận của doanh nghiệp về hiệu quả cải cách điều kiện kinh doanh vẫn còn hạn chế.
Điều tra của VCCI cho thấy, có dấu hiệu một số doanh nghiệp lớn, do muốn bảo hộ đã vận động đưa ra những rào cản thị trường để hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp khác
- Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế VCCI
Chia sẻ đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, doanh nghiệp đánh giá tích cực về sự chuyển động trong cắt giảm điều kiện kinh doanh, tỷ lệ khó khăn trong kinh doanh có giảm đi. Nhưng nếu nhìn lại thì khái niệm điều kiện kinh doanh chưa rõ, vẫn còn lẫn lộn giữa điều kiện kinh doanh và tiêu chuẩn kỹ thuật.
“Thậm chí, điều tra của VCCI cho thấy, có dấu hiệu một số doanh nghiệp lớn, do muốn bảo hộ đã vận động đưa ra những rào cản thị trường để hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp khác. Đây là điều có hại cho người tiêu dùng, gây méo mó thị trường”, ông Tuấn cho hay.
Cũng theo đại diện VCCI, vẫn tồn tại tình trạng các cơ quan quản lý nhà nước vẫn sử dụng các giải pháp hành chính để can thiệp vào thị trường. Việc sửa đổi danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện vẫn không được các Bộ đồng thuận. Thậm chí, dù Chính phủ rất quyết liệt chủ trương cắt giảm đơn giản hóa song vẫn có cơ quan nhà nước muốn thêm các ngành nghề kinh doanh có điều kiện chứ không phải là bớt đi.
Điều này cho thấy vẫn tồn tại tư duy cách thức quản lý chưa bảo đảm quyền tự do kinh doanh, vẫn muốn dùng điều kiện kinh doanh để quản lý nhưng cũng lại chính là giới hạn quyền tự do kinh doanh hiến định. Thậm chí, đến nay vẫn đây đó trong các tờ trình của các bộ vẫn đặt mục tiêu ban hành các điều kiện kinh doanh là để bảo đảm “quản lý nhà nước”. Điều này không đúng là vì quản lý nhà nước không phải là mục tiêu của chính sách”, ông Tuấn nếu vấn đề.
Để khắc phục các bất cập và tồn tại này, ông Đậu Anh Tuấn khuyến nghị các bộ, ngành cần đánh giá hiệu quả cải cách trong từng lĩnh vực, ước tính lợi ích từ hoạt động cải cách trong thời gian qua; tiếp tục rà soát, đề xuất, bãi bỏ, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh; giám sát việc tổ chức, xử lý nghiêm những hành vi cố tình gây khó cho doanh nghiệp; đồng thời, thiết lập cơ chế đối thoại và phản hồi cho doanh nghiệp.
Nhằm thúc đẩy cải cách điều kiện kinh doanh có hiệu quả trong thời gian tới, đại diện CIEM cho rằng, các bộ, ban, ngành cần tạo đột phá mới về cải cách điều kiện kinh doanh bằng cách thay đổi cách thức quản lý nhà nước, chuyển mạnh sang tư duy hậu kiểm.
Theo đó, doanh nghiệp được chủ động thực hiện các hoạt động kinh doanh khi đáp ứng được đầu đủ các yêu cầu về điều kiện kinh doanh; chỉ cần thông báo mà không cần xin phép cơ quan quản lý nhà nước; đồng thời, tự chịu trách nhiệm về việc đáp ứng các yêu cầu về điều kiện kinh doanh.
TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho rằng, trong các điều kiện hiện hành, vẫn còn những điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý hoặc không có ý nghĩa về hiệu quả quản lý nhà nước. Trên thực tế, khi tổ chức thực hiện, một số nơi vẫn chưa nắm rõ những thay đổi, cải cách về điều kiện kinh doanh. Do đó, nâng cao chất lượng điều kiện kinh doanh vẫn là nội dung trọng tâm trong cải cách môi trường kinh doanh ở Việt Nam.