
Cần những tư duy đột phá
Ở thời điểm bản lề trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Trung ương Đảng đã ban hành nghị quyết, chủ trương mới về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; phát triển khu vực kinh tế tư nhân, hội nhập quốc tế trong tình hình mới và đang xây dựng nghị quyết về phát triển kinh tế nhà nước. Theo Phó thủ tướng Nguyễn Chí Dũng, việc xây dựng Đề án về phát triển kinh tế nhà nước phải đảm bảo chất lượng, tạo được sự khác biệt và đột phá.
Giới chuyên gia và doanh nghiệp cho rằng, cần có những giải pháp “xoay chuyển tình thế” để khu vực kinh tế nhà nước có thể cất cánh, không bị chồng lấn, cạnh tranh với kinh tế tư nhân, có những doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nòng cốt, tạo ra bệ đỡ vững chắc cho nền kinh tế. Trên cơ sở đó, nhiều ý tưởng đáng chú ý đã được đề xuất.
Thứ nhất, tiếp tục giảm đầu mối số lượng doanh nghiệp nhà nước và thúc đẩy việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước tại tất cả các loại hình doanh nghiệp từ các bộ, ngành, địa phương về Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) để tiếp tục quá trình sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả như chủ trương tinh gọn bộ máy mà Đảng, Chính phủ đang thực thi quyết liệt.
Những lĩnh vực như quốc phòng, an ninh, các ngành thiết yếu, độc quyền, những lĩnh vực dịch vụ công ích ảnh hưởng đến an sinh xã hội thì Nhà nước nắm giữ chi phối. Còn danh mục đầu tư hướng đến hiệu quả, tuân theo cách vận hành của thị trường, cần sắp xếp lại, tái cơ cấu, bán vốn, thoái vốn, giữ vốn, tăng vốn trên cơ sở đề cao tính hiệu quả, tính thị trường.
Thứ hai, nâng cao vai trò của SCIC, chuyển đổi hoạt động theo mô hình quỹ đầu tư chính phủ để thu hút thêm nguồn lực tài chính vào các doanh nghiệp, dự án lớn, quan trọng. Kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là khảo sát tại các nước ASEAN cho thấy, các quỹ đầu tư chính phủ (SWF) đã phát triển mạnh mẽ và trở thành những nhà đầu tư có vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu. Họ góp phần giúp các quốc gia vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế bằng cách sử dụng các công cụ như mua tài sản xấu, bơm tiền vào hệ thống bảo lãnh các khoản vay để ngăn chặn sự sụp đổ của hệ thống tài chính và giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng.
Thứ ba, giải phóng các “cục máu đông” nợ xấu của nền kinh tế. Hiện Việt Nam có nhiều tổ chức, định chế tài chính cùng tham gia xử lý nợ xấu như Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC), các ngân hàng thương mại… Để xử lý tài sản, nợ xấu tại các doanh nghiệp nhà nước, nên sáp nhập DATC để tập trung đầu mối, tập trung nhân lực, vật lực một cách hiệu quả.
Thứ tư, bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế đang đòi hỏi xu thế lớn hóa doanh nghiệp. Không ít doanh nghiệp địa phương đã tích tụ được nguồn lực, năng lực quản trị, có khả năng xây dựng chiến lược dài hạn để vươn tầm lên doanh nghiệp quốc gia, thậm chí mở rộng hoạt động ra tầm quốc tế. Cần thúc đẩy xu hướng này trong khu vực kinh tế nhà nước để có những “quả đấm thép”, những gương mặt doanh nghiệp quốc gia mới.
Chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ đánh giá: “Đến lúc cần những giải pháp có tính chất xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái với tầm nhìn trăm năm cho đất nước”.
Hình mẫu cho nhà đầu tư của Chính phủ
Khi bàn về sự phát triển của khu vực kinh tế nhà nước, ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng ADB rất tán đồng việc chuyển dịch tư duy quản lý hành chính sang cơ chế thị trường, quản lý theo cơ chế thị trường. Cần sắp xếp các doanh nghiệp có vốn nhà nước thành từng nhóm và mỗi nhóm doanh nghiệp có giải pháp tái cơ cấu khác nhau.
Theo ông Hùng, việc tiếp tục tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước cần được đẩy mạnh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước vừa phối hợp sản xuất, kinh doanh, vừa cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng theo nguyên tắc thị trường. “Câu hỏi quan trọng là, Việt Nam muốn doanh nghiệp nhà nước phát triển đến đâu, từ đó mới có thể nói đến giải pháp”, ông Hùng nêu quan điểm.
So sánh kinh nghiệm quốc tế để giải quyết kỳ vọng quản lý vốn nhà nước, ông Hùng dẫn chiếu kinh nghiệm của Singapore với mô hình Temasek và đánh giá, đảo quốc sư tử giải bài toán rất thú vị, hiệu quả. Năm 1974, Temasek được thành lập và đi vào hoạt động, nắm giữ quyền kiểm soát 35 doanh nghiệp lớn nhất của Chính phủ Singapore với giá trị danh mục 345 triệu SGD, chiếm 3,1% GDP. Trong 20 năm từ năm 2003 đến năm 2023, Bộ Tài chính Singapore đã đầu tư khoảng 70 tỷ SGD vào Temasek, trong đó 50 tỷ SGD từ chính cổ tức Temasek trả cho chính phủ.
Quỹ đầu tư chính phủ khu vực Đông nam Á có quy mô và nguồn lực tài chính rất lớn. Cụ thể, Temasek (Singapore) đạt hơn 300 tỷ USD (chiếm hơn 60% GDP), Khazanah (Malaysia) đạt 33 tỷ USD (8,5% GDP), Danatara (Indonesia) thành lập đầu năm 2025, được công bố có số vốn 900 tỷ USD.
Tài sản của các quỹ đều phần lớn hình thành từ việc tiếp nhận quyền chủ sở hữu từ các doanh nghiệp nhà nước của các quốc gia và được Nhà nước cấp thêm trong quá trình hoạt động.
Đến tháng 3/2025, giá trị danh mục ròng của Temasek là 434 tỷ SGD (hơn 290 tỷ USD), tương đương khoảng 60% so với GDP. Trong đó, Temasek nắm cổ phần lớn và chi phối tại các doanh nghiệp quy mô lớn trong hầu hết các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế Singapore gồm hạ tầng, giao thông - vận tải, năng lượng, cảng biển, bất động sản, viễn thông, công nghệ. Chính phủ và Bộ Tài chính Singapore chỉ đặt ra mục tiêu và nhiệm vụ dài hạn, chứ không tham gia hoặc có bất cứ ảnh hưởng trực tiếp nào vào các quyết định đầu tư của Temasek.
Nhìn lại SCIC, sau hơn 19 năm hoạt động, đã thể hiện được vai trò là tổ chức kinh tế đặc biệt của Chính phủ. Tổng công ty đã tiếp nhận 1.084 doanh nghiệp với tổng giá trị vốn nhà nước (theo vốn điều lệ) là 32.459 tỷ đồng, SCIC đã tái cơ cấu, thoái vốn về còn 100 doanh nghiệp, giữ lại được các doanh nghiệp hiệu quả, với giá trị danh mục đang nắm giữ đến thời điểm hiện tại trên 200.000 tỷ đồng (tương đương khoảng 8 tỷ USD).
Lũy kế từ khi thành lập và đi vào hoạt động năm 2006 đến tháng 9/2025, SCIC đạt tổng lợi nhuận trước thuế 108.830 tỷ đồng; nộp ngân sách nhà nước với tổng số tiền 108.145 tỷ đồng (SCIC nằm trong top 20 doanh nghiệp nộp ngân sách nhà nước lớn nhất năm 2024 với số tiền 10.981 tỷ đồng); tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu (ROE) bình quân 13%/năm. So với thời điểm thành lập đến tháng 9/2025, doanh thu của SCIC tăng gấp 52 lần, lợi nhuận sau thuế tăng gấp 72 lần; vốn chủ sở hữu tăng gấp 17 lần và tổng tài sản tăng gấp 12 lần.
Những con số đó đã chứng minh hoạt động của SCIC có hiệu quả, đảm bảo đúng mục tiêu khi thành lập SCIC, nhưng so sánh quy mô của SCIC với các quỹ đầu tư chính phủ trong khu vực vẫn rất khiêm tốn. Tổng vốn nhà nước SCIC tiếp nhận về tính đến thời điểm này mới bằng khoảng 2% tổng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Quy mô vốn điều lệ được cấp của SCIC hiện là 50.000 tỷ đồng (với 49.000 tỷ đồng vốn đầu tư tại các doanh nghiệp) không đủ nguồn vốn cho SCIC hoạt động đầu tư kinh doanh theo chiến lược phát triển.
Việt Nam, với khát vọng trở thành một nền kinh tế lớn mạnh trong ASEAN, không nằm ngoài xu thế, cần có quỹ đầu tư chính phủ chuyên nghiệp, hiệu năng, hiệu quả. Cần những thiết chế mạnh như công ty xử lý tài sản nợ xấu, đầu tư nhà nước vào doanh nghiệp nhà nước thông qua SCIC, tăng vốn cho SCIC bằng bàn giao doanh nghiệp để tách bạch chức năng sở hữu vốn và quản lý hành chính…
Nói cách khác, phải cho nhà đầu tư của Chính phủ cái cần câu, chứ không chỉ con cá, từ đó SCIC sẽ thúc đẩy hợp lực từ khu vực doanh nghiệp nhà nước, đẩy năng lực hợp tác khu vực, quốc tế. Mô hình SCIC giai đoạn tới có thể là một chìa khóa mở ra những cánh cửa mới, cơ hội mới cần được xem xét trong Nghị quyết về phát triển kinh tế nhà nước.