Bất cập xác định tội phạm về hóa đơn, chứng từ
Thứ nhất, tội phạm về hóa đơn, chứng từ được Bộ luật Hình sự 2015 xếp vào loại nghiêm trọng (khung hình phạt cao nhất của nhóm tội này là đến 5 năm tù), nhưng căn cứ xác định hành vi vi phạm và hậu quả thiệt hại với hóa đơn, chứng từ có số lượng rất lớn hoặc đặc biệt lớn hiện đang gây tranh cãi.
Theo luật, hậu quả thiệt hại căn cứ vào: số lượng hóa đơn, chứng từ (ví dụ: hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100 số, hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số); thu lợi bất chính lớn (ví dụ: từ 30 - 100 triệu đồng).
Tại sao trong cùng một điều luật mà có 2 căn cứ hướng dẫn xác định mức độ hậu quả thiệt hại? Hóa đơn dạng phôi tức là hóa đơn chưa ghi giá trị, chưa được xem là gây hậu quả thiệt hại trong thực tế (hiện mức tiền để in một quyển hóa đơn 50 số khoảng 200.000 đồng, in càng nhiều, giá càng giảm) thì tại sao lại cần phải xử lý hình sự khi mà đã có quy định xử lý hành chính về vấn đề này? Nếu hóa đơn đã ghi nội dung, nhưng giá trị chỉ là 100.000 đồng/hóa đơn, thì gây thiệt hại chỉ vài triệu đồng mà bị xử lý hình sự (phạt tù từ 1 - 5 năm) là quá nặng, vô hình trung khiến người phạm tội có tâm lý “đã vi phạm thì ra vi phạm”.
Thứ hai, việc xử lý hành vi vi phạm về bảo quản hóa đơn, chứng từ hiện không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay khi mà hầu hết các doanh nghiệp đều thực hiện kê khai thuế, báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn, chứng từ qua mạng bằng phần mềm kê khai thuế theo yêu cầu của Tổng cục Thuế. Do vậy, việc xử lý hình sự với hành vi “vi phạm quy định của Nhà nước về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước hoặc cho người khác” là quá nặng với chủ thể của loại tội phạm này, hay nói cách khác là “hình sự hóa” vấn đề, trong khi đã có các quy định về xử phạt hành chính của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp vi phạm.
Tương tự, việc cho phép doanh nghiệp được sử dụng hóa đơn điện tử khiến cho việc xác định dấu hiệu hành vi vi phạm trên không còn phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin về cải cách thủ tục hành chính cho người nộp thuế, cũng như khó xác định lỗi vi phạm thuộc về lỗi kỹ thuật, máy tính, truyền dữ liệu hay là lỗi cá nhân người khởi tạo, lập, gửi, nhận, lưu trữ và quản lý.
Thứ ba, Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân với tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ (Điều 203), nhưng do đang bị hoãn thi hành nên những quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội trong Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tại Điều 164a vẫn tiếp tục áp dụng. Trong khi đó, hành vi được thực hiện có thể vì lợi ích doanh nghiệp, nhân danh doanh nghiệp hoặc được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành, chấp thuận của doanh nghiệp, chứ thực tế người thực hiện (giám đốc, kế toán trưởng…) không tư lợi.
Thứ tư, có tình trạng thất thu thuế khi doanh nghiệp bán hàng không xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho người tiêu dùng hoặc doanh nghiệp hợp thức hóa các khoản chi phí bằng việc mua bán trái phép các hóa đơn, chứng từ. Để xử lý, cơ quan thuế địa phương gặp không ít khó khăn, như thủ tục kiểm tra phức tạp, mức xử phạt thấp và phải tránh can thiệp vào hoạt động sản xuất - kinh doanh bình thường của doanh nghiệp.
Cụ thể, cơ quan thuế muốn kiểm tra phải thông báo cho doanh nghiệp biết trước 3 ngày, khi phát hiện doanh nghiệp bán hàng không xuất hoá đơn kịp thời, mức phạt tối đa là 10 triệu đồng, còn nếu không xuất hoá đơn thì có thể phạt về hành vi trốn thuế nhưng mức phạt chỉ bằng 3 lần số tiền thuế trên số hàng bán không xuất hoá đơn.
Do vậy, một số cục thuế thực hiện giải pháp tình thế là công bố danh sách những doanh nghiệp vi phạm hoặc hóa đơn không có giá trị sử dụng. Tuy nhiên, giải pháp này không thể giải quyết triệt để vấn đề vì mới tác động tới một phía là người/doanh nghiệp bán hàng. Trong thực tế, không chỉ riêng các siêu thị, mà hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh có bán hàng trực tiếp cho các cá nhân không có nhu cầu lấy hoá đơn thì đều không xuất hoá đơn và đa số người mua hàng trong trường hợp này cũng không yêu cầu xuất hoá đơn. Đây là một kẽ hở rất lớn, cơ quan thuế không thể quản lý được và Nhà nước sẽ thất thoát thuế.
Ngoài ra, có nhiều siêu thị chỉ được phép bán buôn, nhưng khách hàng mua lẻ thì vẫn bán. Vấn đề là khi thanh toán, nếu khách hàng không có mã số thuế thì siêu thị có cách hợp thức hóa bằng việc lấy mã số thuế của một khách hàng khác để xuất hóa đơn giá trị gia tăng giao cho khách hàng mua lẻ. Doanh nghiệp bán được hàng, Nhà nước thu được thuế, nhưng phía người người mua trên hóa đơn giá trị gia tăng không mua hàng hóa thật (bị mượn tên), liệu có vi phạm pháp luật hình sự không khi mà “Mua, bán hóa đơn của cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác để hợp thức hóa hàng hóa, dịch vụ mua vào”?.
Tương tự là trường hợp doanh nghiệp giao bán hàng hóa, dịch vụ đến khách hàng, dùng chữ ký số để kê khai thủ tục thuế, hải quan, có chiết khấu cho khách hàng bằng tiền mặt, nhưng hóa đơn giá trị gia tăng vẫn ghi đủ số tiền thì liệu có thuộc hành vi “Mua, bán hoá đơn ghi nội dung không đầy đủ, không chính xác theo quy định” hay không?
Thứ năm, với cơ quan tiến hành tố tụng, tội phạm về hóa đơn, chứng từ là một trong những loại tội phạm mà cơ quan này phải mất nhiều thời gian, công sức để theo dõi, xác minh, thực hiện các hoạt động tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử). Quy định tại Bộ luật Hình sự vô hình trung tạo thêm việc cho cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi việc kiểm tra vi phạm, xử lý vi phạm hành chính, chống thất thu thuế là trách nhiệm của cơ quan thuế các cấp.
Khuyến nghị sửa đổi
Quy định về hậu quả thiệt hại tại Điều 203 và 204 Bộ luật Hình sự 2015 được xác định theo 2 cách: theo số lượng phôi, hóa đơn, chứng từ (chưa ghi giá trị và đã ghi giá trị); thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại ngân sách nhà nước (tính bằng triệu đồng) là chưa hợp lý. Mặt khác, không thể có một quy định về hậu quả thiệt hại mà lúc thì xác định theo số phôi hóa đơn, lúc lại theo thiệt hại tính bằng tiền.
Chưa kể về nguyên tắc, mua bán phôi hóa đơn thì trên thực tế chưa gây thiệt hại, trường hợp này nên áp dụng xử lý bằng biện pháp hành chính (phạt tiền và tiêu hủy) và cũng tránh tình trạng lạm dụng hay hình sự hóa vấn đề này của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, trong Bộ luật Hình sự 2015 sẽ được sửa đổi, bổ sung, kiến nghị chỉ nên có một quy định duy nhất khi xác định hậu quả là căn cứ vào thiệt hại cụ thể được tính bằng tiền trong tất cả các trường hợp; bỏ quy định tính toán hậu quả thiệt hại theo số lượng phôi hóa đơn, chứng từ.
Về xử lý hình sự đối với tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước như quy định tại Điều 204, Bộ luật Hình sự 2015, các chế tài là quá nghiêm khắc đối với người vi phạm và không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của công nghệ thông tin hiện nay, nên áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính vốn đã được cụ thể hóa bằng các luật về thuế.
Mặt khác, hiện luật pháp về thuế cho phép doanh nghiệp có thể dùng 1 trong 3 loại hóa đơn là hóa đơn đặt in, hóa đơn tự in và hóa đơn điện tử. Trong đó, doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử mang lại nhiều lợi ích như giảm chi phí in, gửi, bảo quản, lưu trữ; thuận tiện cho việc hạch toán kế toán, đối chiếu dữ liệu, quản trị kinh doanh; rút ngắn thời gian thanh toán do việc lập, gửi/nhận hoá đơn được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử; góp phần hiện đại hóa công tác quản trị doanh nghiệp.
Việc doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử đã làm cho quy định về xử lý hình sự đối với tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 204, Bộ luật Hình sự 2015) trở nên không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của công nghệ thông tin hiện nay. Vì vậy, kiến nghị bãi bỏ tội này vì những quy định xử phạt hành chính về thuế đã đủ sức răn đe, ngăn ngừa vi phạm và thực hiện quan điểm của Hiến pháp 2013 và Nghị quyết 35/2016 của Chính phủ về việc không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự cũng như việc thực hiện chủ trương Nhà nước kiến tạo, lấy doanh nghiệp là đối tượng phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh và phát triển.
Hiện có hơn 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam (bình quân 200 người dân/1 doanh nghiệp, 96 - 97% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ). Để phấn đấu có 2 - 5 triệu doanh nghiệp trong 10 - 15 năm tới (2020 - 2030), không chỉ đơn giản là bằng cải cách thủ tục hành chính, minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình, điều mà cộng đồng doanh nghiệp cũng cần đó là Nhà nước thực sự phải là một “hậu phương vững chắc”. Theo đó, Nhà nước nên sửa đổi, bãi bỏ một số quy định bất hợp lý liên quan đến nhóm tội phạm về hóa đơn, chứng từ như là một yêu cầu cấp thiết để giúp các doanh nhân tự tin trong hoạt động kinh doanh.