Công tác thi hành án thu hồi nợ xấu: thay đổi nhận thức nhờ Nghị quyết số 42/2017
Gần đây nhất, cùng với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng là việc ban hành Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 19/7/2017 về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 42/2017, giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương.
Bà Lê Thị Kim Dung, Vụ trưởng Vụ Nghiệp vụ 1, Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp
Với phương châm Chính phủ kiến tạo phát triển, quyết liệt hành động, phục vụ người dân và doanh nghiệp, quán triệt và thực hiện hiệu quả các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã có Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 1/1/2018 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018, quan tâm chỉ đạo tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng và minh bạch cho mọi thành phần kinh tế, trong đó đặc biệt quan tâm hoàn thiện chính sách, pháp luật và đơn giản hóa thủ tục hành chính, nhất là về tín dụng, thuế, phí... nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và giải quyết kịp thời hơn kiến nghị của doanh nghiệp, người dân.
Cơ quan tư pháp cũng đã kịp thời ban hành các văn bản cần thiết để triển khai thực hiện Nghị quyết 42/2017. Cụ thể, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu.
Theo đó, Tòa án áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự có liên quan và hướng dẫn của Nghị quyết 03/2018 để giải quyết các tranh chấp. Bộ Tư pháp đã ban hành Chương trình hành động của ngành tư pháp triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và kịp thời quán triệt nội dung Nghị quyết 42/2017 đến toàn hệ thống cơ quan thi hành án dân sự.
Cùng với đó, Quy chế phối hợp số 01/QCLN/NHNNVN-BTP được ký kết trước đó giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tư pháp về phối hợp trong công tác thi hành án dân sự đã tạo ra một cơ chế có tính đặc thù cho công tác xử lý nợ xấu.
Kết quả sơ kết 1 năm thi hành Nghị quyết 42/2017 cho thấy, Nghị quyết đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc, đưa ra những quy định mang tính đột phá, hướng tới việc tối ưu hóa việc thu hồi nợ xấu cho các tổ chức tín dụng. Việc thu giữ tài sản đảm bảo bước đầu đã có tác động tích cực đến nhận thức của khách hàng.
Nhiều trường hợp khách hàng đã chủ động phối hợp tìm nguồn thanh toán tiền nợ, hoặc tự nguyện bàn giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng xử lý, hoặc cùng với ngân hàng thỏa thuận xử lý tài sản, tìm khách hàng bán tài sản để thanh toán nợ. Mặt khác, trường hợp khách hàng chây ì, trốn tránh việc thanh toán nợ, hoặc không thỏa thuận được về phương án thanh toán nợ, ngân hàng chủ động phối hợp với các cơ quan pháp luật để xử lý.
Có thể thấy rằng, trong những năm qua, các tranh chấp hợp đồng tín dụng và việc xử lý tài sản bảo đảm được các tổ chức tín dụng lựa chọn thông qua hệ thống tư pháp để giải quyết và tổ chức thi hành chiếm một số lượng khá lớn. Không chỉ thế, các vụ việc và giá trị các khoản nợ tín dụng phải thi hành án cũng có chiều hướng gia tăng; các loại việc này tập trung ở một số tổ chức tín dụng lớn trong hệ thống và phát sinh dồn vào một số địa bàn vốn đã có số lượng án phải thi hành rất cao so với các địa phương khác như TP. HCM, Hà Nội, Đồng Nai, Long An, Cần Thơ, An Giang...
Nhiều doanh nghiệp phá sản, mất tích khiến công tác thi hành án bất khả thi
Để công tác thu hồi nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm được hiệu quả, các cơ quan thi hành án dân sự nói riêng và các cơ quan tư pháp nói chung đã áp dụng đầy đủ các quy định của pháp luật, xử lý dựa trên cơ sở hợp đồng tín dụng, kịp thời xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ xấu, giúp ổn định nền kinh tế.
Việc các tổ chức tín dụng tham gia tố tụng và thi hành án đã bài bản hơn nhờ có các chuyên viên pháp lý, cố vấn, chuyên gia tham mưu ngày càng chuyên nghiệp. Sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và các tổ chức tín dụng đã chặt chẽ hơn. Nhờ đó, trong những năm gần đây, kết quả thi hành án cho các tổ chức tín dụng đều tăng cả về số vụ việc và số tiền thu được.
Những tồn tại, hạn chế trong công tác thi hành án thu hồi nợ xấu
Bên cạnh những mặt tích cực, công tác thi hành án giải quyết các tranh chấp tín dụng và xử lý tài sản bảo đảm thời gian qua cũng cho thấy nhiều hạn chế. Chẳng hạn, số tiền nợ xấu thu hồi được trên thực tế còn thấp so với kỳ vọng; số vụ việc, số tiền chưa thi hành còn chiếm tỷ lệ lớn, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngân hàng.
Vậy nguyên nhân do đâu? Về mặt chủ quan, đó là một số ít lãnh đạo cơ quan thi hành án dân sự có nhận thức chưa đầy đủ về trách nhiệm được giao trong công tác xử lý nợ xấu; chưa sát sao kiểm tra, chỉ đạo, phân công nhân sự phụ trách những vụ việc có giá trị lớn có vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ tổ chức thi hành án những vụ việc có điều kiện thi hành...
Một số chấp hành viên còn chậm trễ trong tổ chức thi hành án, chưa kiên quyết áp dụng các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án để kê biên, xử lý tài sản bảo đảm, tổ chức thi hành dứt điểm vụ việc. Cũng có trường hợp chấp hành viên đã không tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án, dẫn đến việc đương sự khiếu nại, tố cáo, các cơ quan chức năng có kháng nghị, kiến nghị… nên phải chờ kết quả giải quyết, dẫn đến việc thi hành án bị kéo dài.
Nhiều trường hợp tài sản đưa ra bán đấu giá nhiều lần nhưng không thành do yếu tố tâm lý
Về khách quan, thứ nhất, đó là sự bất cập, chồng chéo, chưa rõ ràng của pháp luật liên quan. Thời gian qua, mặc dù các quy định pháp luật dần được hoàn thiện, các mâu thuẫn, bất cập, chồng chéo trong hệ thống pháp luật dần được loại bỏ, khắc phục, nhưng vẫn còn thiếu nhiều quy định, hoặc do quy định mới ban hành nên gặp không ít khó khăn, vướng mắc khi áp dụng trên thực tế, trong đó có cả các quy định pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Một số điểm hạn chế chính có thể kể tới như:
(i) Chưa có quy định cụ thể trong việc xác định tư cách của bên thứ ba thế chấp tài sản bảo lãnh (một phần hoặc toàn bộ…) cho nghĩa vụ của người phải thi hành án (xác định họ là người phải thi hành án, hay là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) để tổ chức thi hành án đúng pháp luật.
(ii) Pháp luật thi hành án dân sự chưa có quy định cụ thể về việc hoãn thi hành án, hoặc tiếp tục xử lý tài sản bảo đảm có liên quan đến vụ án hình sự, mà tài sản này không được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn, nhưng vụ việc đang được cơ quan có thẩm quyền xem xét lại.
(iii) Quy định về xử lý tài sản hình thành trong tương lai, hoặc xử lý tài sản bảo đảm là các dự án còn chưa có tính khả thi (kê biên tài sản trên đất hay kê biên dự án).
(iv) Quy định về lãi phạt, lãi chậm thi hành án trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng khác chưa rõ ràng, nên có những vụ việc cả 2 bên đều khiếu nại về mức lãi và số tiền tính lãi.
(v) Các quy định pháp luật hiện hành đều bảo vệ người mua trúng đấu giá, nhưng mới chỉ nêu được nguyên tắc và chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ quyền đó (mặc dù tại Điều 103 - Luật Thi hành án dân sự đã bổ sung quy định về việc cưỡng chế giao tài sản cho người trúng đấu giá, nhưng trên thực tế, việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá trong trường hợp này vẫn chưa nhận được sự đồng thuận của các cơ quan hữu quan, hoặc việc áp dụng Nghị quyết 42/2017, ảnh hưởng đến quyền của người mua trúng đấu giá trong khâu chuyển quyền, cấp giấy).
(vi) Quy định về nghĩa vụ của người phải thi hành án trong việc kê khai điều kiện thi hành án chưa khả thi, quy định về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán tiền thi hành án và trách nhiệm nộp các loại thuế, phí liên quan đến chuyển quyền sở hữu, sử dụng còn chồng chéo.
(vii) Quy định tại Điều 74 Luật THADS về xử lý tài sản chung và quy định cho Chấp hành viên xác định, phân chia, xử lý tài sản chung của vợ chồng và tài sản chung của hộ gia đình theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự nhưng thực tiễn thực hiện vẫn gây nhiều lúng túng, thậm chí rủi ro cho Chấp hành viên tổ chức thi hành án.
(viii) Quy định về ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi khác thi hành chỉ được thực hiện khi xử lý xong tài sản kê biên tại địa bàn trong bối cảnh tài sản thi hành án bán nhiều lần nhưng không thành khá lớn khiến việc thi hành án kéo dài, trong khi còn có tài sản ở địa bàn khác.
Thứ hai, hoạt động tổ chức thi hành án dân sự vốn rất cần sự phối hợp nhịp nhàng, kịp thời của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trên thực tế, công tác phối hợp trong thi hành án dân sự chưa thật sự hiệu quả. Bên cạnh việc nhiều địa bàn phối hợp thường xuyên, chặt chẽ, thì vẫn còn một số trường hợp chưa nhận thức rõ trách nhiệm, tâm lý “quyền anh, quyền tôi” khiến việc thi hành án bị kéo dài.
Thứ ba, một số ít bản án, quyết định của Tòa án còn thiếu rõ ràng phải chờ Tòa án giải thích hoặc việc giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm chưa phù hợp; thụ lý tranh chấp tài sản kê biên, xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo thủ tục tố tụng thông thường làm kéo dài thời gian thi hành án, dẫn đến khi thi hành án tài sản có sự thay đổi trên thực tế, không còn nguyên hiện trạng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngân hàng.
Nguyên nhân tiếp theo được nhắc đến là tính chất đặc thù của các tài sản thế chấp. Chẳng hạn, tài sản ở vùng đồng bào miền núi, làng nghề truyền thống, đất có mồ mả, nhà tình nghĩa, nhà tình thương..., dẫn đến không có người mua, khó xử lý tài sản. Nhiều trường hợp tài sản đưa ra bán đấu giá nhiều lần nhưng không thành do yếu tố tâm lý.
Có trường hợp tài sản bảo đảm đã bán đấu giá thành công nhưng chưa giao được cho người mua, không chi trả được tiền cho các tổ chức tín dụng, thậm chí liên quan đến việc thực hiện Nghị quyết 42/2017, chẳng hạn không thống nhất trích lại từ tiền thu được khoản tiền thuê nhà cho người phải thi hành án và gia đình khi tài sản bảo đảm là nhà ở duy nhất của họ; không thống nhất xử lý khoản thuế thu nhập cá nhân mà người phải thi hành án phải nộp, nhưng họ không còn tài sản khác khi mà số tiền bán tài sản thu được không lớn hơn khoản nợ gốc, lãi cho ngân hàng và chi phí phát sinh...
Việc thi hành án thu hồi nợ xấu đạt tỷ lệ thấp còn xuất phát từ ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân. Tình trạng “đứng cho vay, quỳ đòi nợ” xảy ra không phải là hiếm, khi mà người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chống đối quyết liệt nhằm kéo dài thời gian giải quyết.
Nhiều trường hợp người phải thi hành án trong các vụ án liên quan đến các ngân hàng, tổ chức tín dụng là các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần… đến giai đoạn thi hành án thì hầu như đã ngừng hoạt động, có trường hợp liên tục thay đổi người đại diện theo pháp luật hoặc không hợp tác, thường xuyên thay đổi địa chỉ, trốn tránh làm việc, thậm chí lợi dụng thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản nhằm kéo dài thời gian tổ chức thi hành án, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên.
Nhiều trường hợp tài sản bảo đảm là động sản, đến giai đoạn thi hành án thì không xác định được địa chỉ tài sản hoặc đã tẩu tán, khấu hao còn thấp. Do đó, phần lớn các vụ việc thi hành án cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng đều phải thực hiện biện pháp cưỡng chế thi hành án, trong đó có nhiều vụ việc phải tổ chức cưỡng chế có huy động lực lượng.
Một nguyên nhân khác khiến hiệu quả thu hồi nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm thấp xuất phát từ chính các tổ chức tín dụng, ngân hàng, cụ thể:
(i) Có những trường hợp cán bộ tín dụng của ngân hàng, tổ chức tín dụng đã không tuân thủ chặt chẽ trình tự thủ tục cho vay như thẩm định giá quá cao, thiếu kiểm tra về việc quản lý và sử dụng vốn vay cũng như tài sản bảo đảm... Vì thế, nhiều trường hợp tài sản bảo đảm không đúng với thực tế tài sản (sai diện tích, tài sản không đủ theo hợp đồng, không nhận thế chấp tài sản gắn liền trên đất, đất thế chấp có tài sản là nhà ở của người khác...); nhận thế chấp tài sản chưa tuân thủ đúng các quy định pháp luật, hoặc chỉ tin lời khai của người vay mà không kiểm tra kỹ tài sản trước khi nhận, nhất là thế chấp bằng tài sản của người thứ ba hoặc tài sản hộ gia đình, dẫn đến tòa án công nhận hợp đồng thế chấp vô hiệu, làm mất điều kiện thi hành án cho các tổ chức tín dụng.
Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc dứt điểm thi hành án gặp khó khăn, vì hầu hết các vụ việc đều liên quan đến tài sản thế chấp, khi đến giai đoạn thi hành án phải kê biên xử lý và sau khi bán đấu giá, số tiền thu được rất thấp, không đủ thanh toán cho nghĩa vụ bảo đảm, dẫn đến cơ quan thi hành án dân sự phải tiếp tục tiến hành xác minh, vận động đương sự và đa số dẫn đến việc ban hành quyết định chưa có điều kiện thi hành đối với khoản được thi hành án còn lại.
(ii) Ở một số nơi, tổ chức tín dụng, cán bộ liên quan chưa có sự phối hợp với các cơ quan thi hành án trong việc xử lý tài sản bảo đảm, tổ chức thi hành án (không thực hiện việc giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện việc kê biên tài sản bảo đảm; tự thỏa thuận với đương sự thu tiền và trả lại tài sản bảo đảm khi cơ quan thi hành án dân sự đã và đang thực hiện việc kê biên tài sản bảo đảm để thi hành án; các tổ chức tín dụng không nhận tài sản bán đấu giá không thành để trừ vào khoản được thi hành án, phối hợp cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm chưa kịp thời...).
Các giải pháp xử lý nợ xấu trong thi hành án dân sự
Với vai trò là đơn vị đầu mối, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục quan tâm và phát huy phối hợp với Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự trong công tác thu hồi nợ xấu của các tổ chức tín dụng, hoàn thiện thể chế, nhất là tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng Nghị quyết 42/2017 để nâng cao hiệu quả của công tác này;
Tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng khi lập hồ sơ cho vay vốn phải đảm bảo tính chặt chẽ về tình trạng tài sản bảo đảm, tổ chức thẩm định giá đúng giá trị thực tế và đánh giá tác động về biến động giá trị của tài sản trong tương lai gần.
Chỉ đạo chi nhánh Ngân hàng Nhà nước ở địa phương tiến hành kiểm tra thực hiện Quy chế phối hợp, rà soát tình hình thi hành án liên quan đến các tổ chức tín dụng, từ đó rút kinh nghiệm, chỉ đạo chung. Đặc biệt là chỉ đạo các ngân hàng có lượng án tín dụng lớn cần tiếp tục rà soát vụ việc đã có bản án chưa thi hành án và vụ việc có điều kiện thi hành để kịp thời đôn đốc tổ chức thi hành án.
Tổ chức các lớp tập huấn, phổ cập những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ thi hành án dân sự, rút kinh nghiệm trong việc ký kết hợp đồng, tham gia tố tụng và tổ chức thi hành án cho cán bộ có liên quan của ngân hàng để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp trong thi hành án dân sự.
Về phía hệ thống thi hành án, trong thời gian tới, các cơ quan thi hành án dân sự cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc các quy định tại Nghị quyết 42/2017, Chỉ thị 32/CT-TTg và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền.
Tiếp tục rà soát, tổng hợp báo cáo liên quan đến những nội dung khó khăn, vướng mắc khi thực hiện Nghị quyết 42/2017 trong lĩnh vực thi hành án dân sự và đề xuất các biện pháp tháo gỡ để hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự; rà soát những vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án (đặc biệt là công tác thu hồi nợ xấu của các tổ chức tín dụng) để trao đổi, thống nhất với các cơ quan, ban, ngành có liên quan thống nhất biện pháp giải quyết, nhằm tháo gỡ hoặc kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Tiếp nhận và xử lý kịp thời có hiệu quả các vụ việc, vướng mắc do cơ quan thi hành án dân sự địa phương đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ, hoặc thông qua phản ánh của các tổ chức tín dụng.
Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng để tổ chức các đoàn kiểm tra, phúc tra việc thi hành án liên quan đến tín dụng, ngân hàng tại những địa phương có lượng án tín dụng ngân hàng lớn, tổ chức các buổi làm việc trực tiếp tại các địa bàn về những vụ việc cụ thể khi cần thiết để tháo gỡ khó khăn, tổ chức thi hành án hiệu quả.
Các giải pháp trên nhằm hướng tới công tác thi hành án dân sự liên quan đến xử lý thu hồi các khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng đạt hiệu quả cao trong thời gian tới, đặc biệt là chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự địa phương từ nay đến cuối năm 2019, tập trung tổ chức thi hành dứt điểm các vụ việc thi hành án tín dụng ngân hàng có giá trị lớn, có điều kiện thi hành để đạt chỉ tiêu, nhiệm vụ Quốc hội giao là: "Nâng cao hiệu quả thi hành các bản án liên quan đến các khoản nợ của tổ chức tín dụng đã có hiệu lực pháp luật đạt tỷ lệ cao hơn năm 2018 cả về đầu việc lẫn số tiền trên tổng số vụ việc có điều kiện thi hành”.