Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam: Đề xuất cơ chế tài chính vượt trội

Bên cạnh 19 chính sách đặc thù, đặc biệt đã được phê duyệt, một số nhà đầu tư tư nhân đang đề xuất thêm các cơ chế vượt trội khác để có thể tham gia đầu tư Dự án Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Phối cảnh Dự án Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam

Loạt đề xuất mới

Sự cẩn trọng và trách nhiệm là điều có thể nhận thấy trong các ý kiến của Bộ Tài chính đối với đề xuất thí điểm một số cơ chế đặc thù cho Dự án Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam trong trường hợp đầu tư theo hình thức kinh doanh đang được Bộ Xây dựng tham vấn ý kiến của các bộ, ngành liên quan.

Theo đó, trong Công văn số 16680/BTC-PTHT vừa gửi Bộ Xây dựng, đại diện Bộ Tài chính cho rằng, việc xây dựng Đề cương chi tiết Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam khi thực hiện theo hình thức đầu tư kinh doanh là phù hợp với chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ.

Đề xuất của Bộ Xây dựng cũng phù hợp với định hướng phát triển doanh nghiệp tư nhân tại Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 và Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội, nhằm đóng góp vào tăng trưởng và phát triển của đất nước.

Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, Nghị quyết của Quốc hội thí điểm chỉ áp dụng cho một đối tượng là Dự án Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Trong khi đó, tại Nghị quyết số 172/2024/QH15 về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, Quốc hội đã quy định một số cơ chế đặc thù vượt trội để đầu tư công trình (bao gồm tiêu chuẩn kỹ thuật, tổng mức đầu tư, phương án triển khai, nguồn lực đầu tư, thời gian thực hiện...), đảm bảo thống nhất, toàn diện các chính sách thực thi sau này.

“Vì vậy, đối với các chính sách thí điểm tại Dự thảo Nghị quyết, đề nghị Bộ Xây dựng bổ sung nội dung đánh giá, so sánh, thuyết minh sự cần thiết phải bổ sung chính sách, trong đó có đánh giá tác động của đề xuất…”, Công văn số 16680 do Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung ký nêu rõ.

Bên cạnh đó, việc xây dựng Nghị quyết thí điểm phải có thời hạn, cần đánh giá tổng kết chính sách, nhân rộng, luật hóa (nếu hiệu quả) để áp dụng toàn quốc, trong khi Dự thảo Nghị quyết chỉ áp dụng cho một dự án có tính đặc thù và có hiệu lực trong suốt vòng đời công trình. Do đó, Bộ Tài chính đề nghị Bộ Xây dựng nghiên cứu thêm phương án, báo cáo cấp thẩm quyền theo hướng sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 172/2024/QH15 của Quốc hội.

Về nội dung Đề cương chi tiết Nghị quyết, Bộ Tài chính đề nghị Bộ Xây dựng nghiên cứu bổ sung thuyết minh làm rõ mục tiêu, cơ sở đề xuất các chính sách, đánh giá tác động đến kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước, cũng như các điểm đặc thù so với luật hiện hành để làm căn cứ trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Theo Bộ Tài chính, các chính sách ưu đãi trong Đề cương chi tiết cần được đánh giá bảo đảm phù hợp với nguyên tắc cạnh tranh thương mại và các cam kết WTO, điều ước quốc tế, cân đối ngân sách nhà nước, nguyên tắc tự chịu trách nhiệm tài chính của nhà đầu tư theo Luật PPP; đồng thời tính đến rủi ro nợ công (vì Nhà nước vẫn phải cấp vốn, hỗ trợ lãi suất, tỷ giá, trượt giá do lạm phát và nghĩa vụ trả nợ...).

“Các cơ chế, chính sách được đề xuất tại Dự thảo Đề cương chi tiết Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến phạm vi quản lý của Bộ Tài chính đều là các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt, chưa có quy định trong pháp luật hiện hành; do đó cần báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt về quy trình, cách thức triển khai thực hiện”, Công văn số 16680 nêu rõ.

Cần nói thêm rằng, trong Công văn số 12019/BXD-KHTC, Bộ Xây dựng cho biết, sau khi Nghị quyết số 68-NQ/TW được Bộ Chính trị ban hành về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội ban hành một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, một số nhà đầu tư tư nhân đã đề xuất đầu tư Dự án Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam theo hình thức đầu tư kinh doanh.

Trong các văn bản đề xuất, một số nhà đầu tư đã kiến nghị cấp có thẩm quyền cho phép áp dụng thêm một số cơ chế, chính sách vượt trội, ngoài 19 chính sách đặc thù, đặc biệt đã được phê duyệt tại Nghị quyết số 172.

Đáng chú ý là kiến nghị Nhà nước cho vay hoặc bảo lãnh vay tối đa không quá 80% tổng mức đầu tư dự án được phê duyệt (không bao gồm kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư), với lãi suất bằng 0% trong thời hạn không quá 30 năm kể từ ngày giải ngân từng khoản vay. Hết thời hạn nêu trên, nhà đầu tư có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ khoản vay cho Nhà nước hoặc bên cho vay theo quy định.

Liên quan đến chính sách thuế, một số nhà đầu tư đề xuất được miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải đường sắt tạo tài sản cố định, kể cả khi trong nước đã sản xuất được; miễn thuế thu nhập doanh nghiệp toàn bộ thời gian hoạt động của dự án.

Đặc biệt, một số nhà đầu tư mong muốn tổng dư nợ cấp tín dụng cho Dự án Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam sẽ không tính vào tổng dư nợ cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với chủ đầu tư và người có liên quan theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng.

Cẩn trọng với đề xuất tài chính

Tại Công văn số 12019, Bộ Xây dựng cũng đề xuất cơ chế cho phép Chính phủ chỉ định nhà đầu tư lập Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án, trình Chính phủ phê duyệt làm cơ sở lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án theo hình thức đầu tư kinh doanh.

Trong Báo cáo nghiên cứu khả thi, nhà đầu tư được phép đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt, bao gồm cả chính sách về miễn thuế, cho vay hoặc bảo lãnh vay, tổng dư nợ cấp tín dụng.

Hiện Dự án chưa xác định được tổng mức đầu tư (Báo cáo Nghiên cứu tiền khả thi mới xác định sơ bộ tổng mức đầu tư), nhu cầu và phương án sử dụng vốn.

Vì vậy, Bộ Xây dựng cho rằng, cần có cơ chế xem xét cho phép Chính phủ chỉ định nhà đầu tư lập Báo cáo nghiên cứu khả thi làm cơ sở đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt trình cấp có thẩm quyền quyết định.

Liên quan nội dung này, Bộ Tài chính cho rằng, theo khoản 3, Điều 24, Luật Đường sắt, đối với dự án thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư, nếu chỉ có một nhà đầu tư đề xuất, cấp có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư theo quy định. Tuy nhiên, Luật Đường sắt không quy định với trường hợp dự án có nhiều nhà đầu tư quan tâm, trong khi thực tế Dự án Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam đã có nhiều nhà đầu tư (VinSpeed, Thaco...) bày tỏ mong muốn tham gia.

Do vậy, Bộ Tài chính đề nghị Bộ Xây dựng nghiên cứu, xem xét cơ chế đặc thù “giao một nhà đầu tư lập hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư” (trong đó gồm tiêu chí, trình tự giao nhà đầu tư) kèm theo quy trình thực hiện hồ sơ, đảm bảo công khai, minh bạch, xin ý kiến rộng rãi các nhà đầu tư trước khi trình phê duyệt, tránh rủi ro phát sinh tranh chấp.

Bộ Tài chính đã dành dung lượng đáng kể trong Công văn số 16680 (gồm 10 trang A4) để nêu ý kiến về đề xuất cho vay hoặc bảo lãnh vay thực hiện Dự án Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam của các nhà đầu tư tư nhân.

Đáng chú ý là việc Bộ Tài chính kiến nghị Bộ Xây dựng xem xét bổ sung cơ chế phân bổ tỷ lệ vốn Nhà nước cho vay hoặc bảo lãnh vay giữa các hợp phần dự án, tránh dồn toàn bộ hỗ trợ vào một nhà đầu tư hoặc đoạn tuyến cụ thể. Đồng thời làm rõ nguồn vốn, cơ chế hoàn trả, bảo đảm an toàn nợ công và kiểm soát rủi ro tài khóa, tránh gây áp lực lên ngân sách nhà nước, làm hạn chế khả năng bố trí vốn đầu tư công cho các chương trình khác trong dài hạn.

Theo Bộ Tài chính, đề xuất Chính phủ vay về cho chủ dự án vay lại với lãi suất 0% trong thời hạn không quá 30 năm tương đương việc Chính phủ phải đứng ra trả lãi cho khoản vay; điều này làm gia tăng nghĩa vụ trả nợ lãi của Chính phủ/tổng thu ngân sách nhà nước, có khả năng vượt trần và ảnh hưởng tiêu cực đến xếp hạng tín nhiệm quốc gia.

Thêm vào đó, lãi suất 0% làm suy yếu khả năng hoàn vốn và giảm động lực trả nợ của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp không có áp lực trả nợ (vì ngân sách nhà nước trả lãi) sẽ khiến Nhà nước khó thu hồi được nợ, không phù hợp với nguyên tắc quản lý nợ theo hướng thị trường.

Theo cơ chế đặc thù đề xuất, nhà đầu tư có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ khoản vay một lần khi hết thời hạn vay. Bộ Tài chính đánh giá đây là phương án rất rủi ro.

“Đề nghị Bộ Xây dựng đánh giá tính khả thi của phương án này khi tổng nhu cầu vay rất lớn, trong khi khả năng thu hồi vốn thực tế rất khó bảo đảm nếu dự án chậm tiến độ hoặc không đạt hiệu quả tài chính như dự kiến”, Công văn số 16680 nêu rõ.

Theo Nghị quyết số 172/2024/QH15 của Quốc hội, Dự án Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam có mục tiêu đầu tư mới toàn tuyến đường đôi khổ 1.435 mm, tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; 23 ga hành khách, 5 ga hàng hóa; phương tiện, thiết bị hiện đại; đường sắt tốc độ cao vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết.

Sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 1.713.548 tỷ đồng (tương đương 67,34 tỷ USD), trong đó chi phí giải phóng mặt bằng khoảng 5,9 tỷ USD.

Về tiến độ, sẽ lập Báo cáo nghiên cứu khả thi từ năm 2025; cơ bản hoàn thành dự án năm 2035.

Tại Báo cáo số 945/BC-CP ngày 17/10/2025, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội nhu cầu về vốn đầu tư giai đoạn 2026-2030 dự kiến khoảng 8,662 triệu tỷ đồng, trong đó nhu cầu vốn ngân sách trung ương là 5,325 triệu tỷ đồng.

Chính phủ đã dự kiến khả năng cân đối ngân sách nhà nước cho đầu tư công giai đoạn 2026-2030 là 8,31 triệu tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương là 3,8 triệu tỷ đồng, đã bao gồm nhu cầu vốn cho Dự án Xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam (theo đăng ký của Bộ Xây dựng) là 916.361 tỷ đồng.

Như vậy, về khả năng bố trí vốn ngân sách nhà nước cho Dự án, về cơ bản nguồn vốn được bảo đảm trên cơ sở khung cân đối 5 năm giai đoạn 2026-2030.

Anh Minh
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục