Vay margin, cần tỉnh táo và thận trọng

(ĐTCK) Trong mỗi lần giảm mạnh, các nhà đầu tư đều liên tục nhắc đến hai cụm từ “vỡ margin” và “force sell”.
Vay margin, cần tỉnh táo và thận trọng

Từ tháng 3/2018 tới nay, thị trường chứng khoán có nhiều đợt giảm điểm, gần đây nhất là đợt sụt giảm kể từ đầu tháng 11/2019. Trong mỗi lần giảm mạnh, các nhà đầu tư đều liên tục nhắc đến hai cụm từ “vỡ margin” và “force sell”, để mô tả hiện tượng bán tháo cổ phiếu cùng với việc bắt buộc bán của các công ty chứng khoán đối với những tài khoản vi phạm mức ký quỹ duy trì tối thiểu.

Giao dịch ký quỹ (margin) là công cụ và bán giải chấp (force sell) là động thái cụ thể gây ra sự sụt giảm của thị trường, nhưng cũng không thể phủ nhận, margin góp phần tạo nên tính thanh khoản và làm thị trường sôi động hơn. Đặc biệt, trong các đợt tăng điểm, margin có thể giúp nhà đầu tư nhân mức lãi lên gấp đôi, gấp ba. Dưới đây là một số góc nhìn nhằm giúp các nhà đầu tư sử dụng công cụ margin hiệu quả hơn.

Các đối tượng tham gia

Trên thị trường cho vay giao dịch ký quỹ, có 4 đối tượng tham gia chính là các ngân hàng, công ty chứng khoán, doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Ngân hàng là nơi cung cấp trực tiếp lượng vốn tới các công ty chứng khoán nội, trong đó có công ty là công ty con của ngân hàng. Còn công ty chứng khoán ngoại thường được tài trợ vốn từ công ty mẹ là tổ chức tài chính hoặc tập đoàn lớn.

Nhìn chung, các khoản tài trợ cho ngành chứng khoán được phân loại hệ số rủi ro cao, vì vốn này sẽ chủ yếu chảy vào việc cho vay ký quỹ.

Theo quy định, tỷ lệ cho vay margin đối với một khách hàng không được vượt quá 3% vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán và 5% tổng số chứng khoán niêm yết của mã đó.

Trên thực tế, có nhiều cách để “lách” quy định này, khi một nhóm nhà đầu tư liên quan mở nhiều tài khoản cho nhiều mục đích khác nhau.

“Người khổng lồ thì luôn để lại dấu vết”, nên có những nhà đầu tư lần theo “dấu vết” này để ra quyết định đầu tư. Đây cũng là lý do chính gây ra hiện tượng tháo chạy và vỡ margin khi tất cả nhà đầu tư đột ngột rút một lượng vốn lớn trên diện rộng.

Đối với doanh nghiệp, một số trường hợp lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp tham gia vào việc tác động tới giá cổ phiếu.

Việc vay nợ công ty chứng khoán không hề khó đối với các doanh nghiệp lớn, nên tận dụng điều này, lãnh đạo doanh nghiệp có thể liên kết với những “người khổng lồ” để tác động tới giá cổ phiếu, sau khi vay mua cổ phiếu và cầm cố chính cổ phiếu đó.

Giá cổ phiếu chỉ cần tăng gấp đôi là họ có thể trả được nợ và có được lợi nhuận một cách nhanh chóng, nên việc “vượt qua cám dỗ” này là không hề dễ dàng.

Thậm chí, với doanh nghiệp sản xuất vay vốn lưu động để kinh doanh, nhưng lãnh đạo doanh nghiệp có thể sử dụng dòng tiền thặng dư sau khi phân bổ để tranh thủ “lướt sóng” cổ phiếu.

Đối với nhà đầu tư, vay margin cũng rất dễ dàng, thậm chí được các công ty chứng khoán liên tục mời chào.

Theo một vài số liệu thống kê không chính thức, nhà đầu tư tổ chức đang đóng góp khoảng 15 - 20% giá trị giao dịch của thị trường, còn lại là nhà đầu tư cá nhân, trong vòng vài cái click chuột có thể vay gấp 2 - 3 lần tài sản ròng.

Với sự đa dạng và phức tạp của các thành phần tham gia margin, thị trường khó có công cụ hữu hiệu để đo lường lòng tham, nỗi sợ, thậm chí là “điên rồ” của đám đông, khiến thị trường chứng khoán có những đợt tăng cao, giảm sâu bất thường.

Vay margin, cần tỉnh táo và thận trọng ảnh 1

* Cuối quý III/2019, VN-Index đóng cửa ở mức 996,5 điểm; những phiên đầu tháng 11 tăng lên trên 1.020 điểm, sau đó giảm còn 953,4 điểm ngày 3/12.

Góc độ đầu tư, tài chính

Nếu “quy đổi” tất cả các chủ thể tham gia thị trường và nhìn theo cơ chế hoạt động của một doanh nghiệp (kể cả nền kinh tế) thì sử dụng nợ hiệu quả mang lại tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu rất cao, mà không phải bỏ ra nhiều vốn tự có.

Những doanh nghiệp sử dụng nợ hiệu quả đều có một nguyên tắc chung là đầu tư vào những tài sản hiệu quả, các tài sản này sinh lời và tạo ra dòng tiền dương sau phân bổ các chi phí trong tương lai.

Ví dụ, những doanh nghiệp thâm dụng vốn lớn (xây dựng, vật liệu, điện, nước…) thường phải sử dụng nợ nhiều, nhưng khi có lợi thế cạnh tranh, đầu ra được đảm bảo, dòng tiền dương về ngay lập tức sẽ dùng để trả bớt nợ và tối ưu vận hành.

Doanh nghiệp có các phòng ban, quy trình, quy định để kiểm soát, theo dõi sát sao hoạt động kinh doanh hàng ngày, với đội ngũ ban lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm. Tuy vậy, số lượng doanh nghiệp niêm yết dùng nợ hiệu quả được nhận định là không nhiều.

Nhà đầu tư cá nhân cũng đang dùng nợ, nhưng để tài trợ cho việc đầu cơ, việc duy nhất họ làm sau khi vay nợ là quan sát thị giá (điều không có gì đảm bảo trước).

Đây chính là nguồn cơn cho sự phi lý trí và những kết quả tệ hại sinh ra suy nghĩ tiêu cực về việc vay nợ và cả thị trường chứng khoán.

Không có quy trình, quy định hay cơ chế nào giám sát được sự điên rồ của con người khi đối mặt với nỗi sợ hãi mất tiền.

Chuyện gì có thể xảy ra khi phần lớn tiền vay margin tập trung tại những doanh nghiệp có vay nợ lớn và có tin tức không tốt về doanh nghiệp hoặc ngành nghề đang kinh doanh, nền tảng nào để đặt niềm tin giá cổ phiếu sẽ phục hồi trong dài hạn?

Góc độ tâm lý nhà đầu tư

Trong các bước để đầu tư hiệu quả thì kiểm soát tâm lý là vấn đề khó nhất, chứ không phải việc học chuyên môn. Cơ chế suy nghĩ của con người vốn không phù hợp với việc đầu tư và điều này phải rèn luyện qua thời gian.

Các bậc thầy về đầu tư rút ra một kinh nghiệm là “Đầu tư không phải là cuộc chiến để đánh bại kẻ khác, mà là một cuộc chiến để kiểm soát chính bản thân mình” (Benjamin Graham).

Khi vay nợ, nhà đầu tư thường rơi vào hai trạng thái tâm lý phổ biến là “phản ứng với phần thưởng”, khi mọi việc thuận lợi, tâm lý có thể vô cùng lạc quan và “cuộc đời tươi đẹp hơn”, sự tự tin gia tăng khi số lần đúng và tài sản tăng lên hàng ngày.

Ngược lại là tâm lý “chối bỏ thực tại” khi có những khoản lỗ liên tục, không thừa nhận sai lầm và né tránh chúng, vì vậy mới có câu nói “nhà giao dịch không nên có ký ức”.

Sự lý trí và tính kỷ luật vẫn là những nhân tố quan trọng nhất trong một thương vụ đầu tư và rộng ra là cả trong cuộc sống.

Tuy nhiên, các nhà đầu tư cần lưu ý đến tính kỷ luật đó dựa trên nền tảng nào và phải thực sự hiểu sâu, nắm vững những tài sản mình đang sở hữu, nhằm xây dựng được niềm tin để vượt qua sự phi lý trí và những “điểm mù”.

Góc độ học thuật

Khoản tiền vay chảy vào thị trường chứng khoán có thể được quay vòng với tốc độ khủng khiếp, đồng thời sinh ra đủ các công cụ khác nhau để phục vụ cho việc tối ưu khoản tiền đó.

Ngân hàng quan tâm đến việc làm sao thu hồi được vốn và lãi an toàn; công ty chứng khoán quan tâm làm sao quay vòng nhanh được khoản tiền đó; doanh nghiệp thì có mục tiêu đa dạng, nhưng đều muốn cổ phiếu của công ty tăng giá, thị trường diễn biến thuận lợi để huy động thêm vốn mới; còn nhà đầu tư muốn kiếm lời nhanh trong khoảng thời gian ngắn.

Do đó, những người làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu không thể không suy nghĩ tới những vấn đề trên.

Bằng chứng là một loạt lý thuyết như thị trường hiệu quả, mô hình định giá tài sản vốn (CAPM), lý thuyết quản trị danh mục đầu tư hiện đại… ra đời, nhằm mục tiêu khái quát và lượng hóa các thành tố trong một khoản đầu tư, cụ thể là rủi ro và mức sinh lời kỳ vọng.

Ví dụ, mô hình định giá tài sản vốn tính toán chi phí vốn chủ sở hữu - là biến số quan trọng nhất dùng để tính toán lãi suất chiết khấu dòng tiền, cổ tức của doanh nghiệp về hiện tại, từ đó xác định giá trị thực của doanh nghiệp.

Mô hình này có đề cập tới khái niệm rủi ro danh mục, rủi ro thị trường, hiểu đơn giản là sự biến động của giá cổ phiếu trong mối tương quan với thị trường chung.

Việc vay nợ margin cao cộng với tâm lý bất ổn của nhà đầu tư là nguyên nhân chính gây ra những biến động bất thường trong thị trường chung và giá cổ phiếu, nhưng các bài nghiên cứu, phân tích lại sử dụng biến số này cho việc tính toán giá trị thực của một doanh nghiệp, trong khi giá trị thực chỉ liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và nếu doanh nghiệp không niêm yết trên sàn chứng khoán thì việc tính toán là rất khó.

Rủi ro trong kinh doanh khác với rủi ro biến động giá trên thị trường chứng khoán, đặc biệt khi thời gian càng ngắn thì hai loại rủi ro đó hầu như không có mối tương quan.            

Hầu hết tài liệu học thuật, kiến thức được giảng dạy ở các trường kinh tế, báo cáo phân tích của các công ty chứng khoán đã và đang áp dụng những kiến thức này để phục vụ cho việc đầu tư. Trong khi đó, các nhà đầu tư thành công đều rất thực tế và nhìn sâu vào bản chất của vấn đề.

Có thể nói, dòng chảy của tiền cho vay và cho vay ký quỹ dễ dàng đã tạo ra những nhận thức chưa đúng về mặt tư duy, chưa thực tế trong quá trình đầu tư.

Để sử dụng công cụ này hiệu quả, cần tỉnh táo và xây dựng từng bước trong quy trình đầu tư thật vững chắc.

Trước hết, việc tiếp cận thông tin từ lý thuyết tới các tài liệu thực tế cần được suy ngẫm đúng với bản chất, liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh doanh thực của một doanh nghiệp, sau đó có những nguyên tắc tự trải nghiệm và học hỏi không ngừng nhằm kiểm soát những lập luận, cơ sở và tâm lý đầu tư.

Tất cả những điều này cần chuẩn bị kỹ, có thời gian dài tích lũy, thực hành, kkhông nên quá nôn nóng trong việc tìm ra khoản đầu tư tốt, kiếm lợi nhuận nhanh.

Thực tế, những nhà đầu tư thành công hoặc những người giàu nhất đều có những nguồn thu nhập lâu dài, bền vững, sinh lời tốt nhờ họ kiểm soát được lòng tham, nỗi sợ và làm chủ được tài sản bằng năng lực bản thân.

VOT partners - www.votpartners.com

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục