Quyết tâm chính trị
Nghị quyết Trung ương 3 khoá XI nhấn mạnh, để cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống NHTM, các tổ chức tài chính, cần đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với TTCK, thị trường bất động sản, thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường vàng và ngoại tệ, khắc phục tình trạng đô la hoá; kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của DNNN, vay trả nợ nước ngoài, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, TTCK và các nguồn vốn nóng khác; giảm tỷ lệ cung cấp vốn cho đầu tư phát triển từ hệ thống NHTM. Cấu trúc lại hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính theo hướng sáp nhập, hợp nhất các NHTM, các tổ chức tài chính nhỏ để có số lượng phù hợp các NHTM và tổ chức tài chính có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản và an toàn hệ thống.
Theo đó, ngày 1/3/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 254/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015” và năm 2013 ban hành Quyết định số 339/2013/QĐ-TTg, yêu cầu trong giai đoạn 2013 - 2015 phải tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính của các tổ chức tín dụng (TCTD), đến năm 2015 giảm nợ xấu xuống dưới 3% tổng dư nợ tín dụng, phát triển các hoạt động kinh doanh chính, bảo đảm khả năng thanh toán, chi trả và phát triển ổn định, bền vững, tập trung xử lý tình trạng sở hữu chéo và tăng tính minh bạch trong hoạt động của các TCTD để đến năm 2020, phát triển được hệ thống các TCTD đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc, với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình, có khả năng cạnh tranh cao.
TS.Vũ Đình Ánh, Chuyên gia kinh tế
Tiến trình cơ cấu lại hệ thống tài chính, trong đó trọng tâm là cơ cấu lại các NHTM đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Sau 4 năm đã giảm được 17 TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thông qua mua bán và sáp nhập, rút giấy phép, giải thể.
Số lượng các NHTM cổ phần đã giảm xuống còn 28 (không kể 3 NHTM nhà nước đã cổ phần hoá) thông qua sáp nhập và hợp nhất hàng loạt NHTM yếu kém. Hệ thống các TCTD nói chung, các NHTM nói riêng đã được lành mạnh hoá cơ bản với việc tập trung xử lý nợ xấu, tăng cường tính thanh khoản, kiểm soát chặt chẽ rủi ro tín dụng và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Mỗi NHTM, mỗi TCTD đều tự tích cực cơ cấu lại từ nguồn vốn chủ sở hữu, định hướng kinh doanh, phát triển hệ thống đến bộ máy quản lý, đội ngũ nhân viên và quản trị ngân hàng, trích lập dự phòng rủi ro và sử dụng lợi nhuận… Tính đến cuối năm 2015, hầu hết các NHTM đã hoàn thành bước đầu lộ trình cơ cấu lại theo phương án được phê duyệt.
Theo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2016 - 2020 tại Đại hội lần thứ XII của Đảng, để xây dựng hệ thống ngân hàng bền vững đến năm 2020, cần phối hợp hiệu quả giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách khác để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, kiểm soát tốt lạm phát, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam, tăng dự trữ ngoại hối; điều hành lãi suất, tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, bảo đảm an toàn hệ thống; thực hiện công khai, minh bạch và áp dụng chuẩn mới về quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
Sau giai đoạn các NHTM tự nguyện sáp nhập và tự cơ cấu lại từ cuối năm 2011 đến cuối năm 2014, tiến độ và hiệu quả cơ cấu lại các NHTM được đảm bảo thông qua bắt buộc các NHTM cổ phần phải sáp nhập theo phương án được cơ quan quản lý hướng dẫn và phê duyệt.
Trước hết, 3 NHTM cổ phần có phần vốn chủ yếu do Nhà nước nắm giữ chịu trách nhiệm nhận sáp nhập, để vừa mở rộng và nâng cao vị thế trụ cột của các NHTM cổ phần do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, từ đó xây dựng 1 - 2 tập đoàn tài chính ngân hàng tầm cỡ khu vực, vừa góp phần cơ cấu lại, lành mạnh hoá hệ thống NHTM với sự tham gia của NHTM lớn.
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý phê duyệt các phương án sáp nhập giữa các NHTM cổ phần thuần tuý với nhau theo nguyên tắc tạo ra các NHTM lớn hơn, có sức cạnh tranh cao hơn và huy động nguồn lực của các ngân hàng có thực lực mạnh tham gia xử lý các ngân hàng cần cơ cấu lại. Trường hợp ngân hàng buộc phải cơ cấu lại song chưa có phương án sáp nhập hay tự cơ cấu lại khả thi thì có thể sẽ bị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mua lại với giá 0 đồng, tương tự trường hợp của VNCB, hay Ocean Bank và GPBank. Với các phương án cơ cấu lại toàn diện, bao quát tất cả các trường hợp, huy động sự tham gia của cả hệ thống nêu trên, nên tiến độ cơ cấu lại các NHTM được đảm bảo.
Để đảm bảo hiệu quả, một mặt, NHNN gắn đề án cơ cấu lại theo Quyết định số 254/2012/QĐ-TTg với đề án xử lý nợ xấu và đề án thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD (VAMC). Theo đó, xử lý nợ xấu vừa là yêu cầu buộc các NHTM phải cơ cấu lại, vừa giúp các NHTM lành mạnh hoá trong và sau khi thực hiện cơ cấu lại.
Hiệu quả tiến trình cơ cấu lại còn được quyết định bởi hiệu quả của chính mỗi phương án sáp nhập, hợp nhất NHTM thông qua lựa chọn những “cặp đôi” phù hợp có tác động tương hỗ, có điều kiện phát triển sau khi sáp nhập, hợp nhất, chứ không phải là những phép cộng số học đơn thuần.
Chương trình cơ cấu lại hệ thống NHTM sẽ có hiệu quả cao và bền vững hơn nếu có sự phối kết hợp đồng bộ với tiến trình cơ cấu lại các lĩnh vực khác có liên quan, đặc biệt là chương trình cơ cấu lại DNNN, đầu tư công, thị trường tài chính và thị trường bất động sản. Mục tiêu đến năm 2020, chỉ giữ lại 15 - 17 NHTM cổ phần thật sự vững mạnh, đủ năng lực cạnh tranh với các NHTM trong khu vực.
Tính đến cuối năm 2015, tỷ lệ nợ xấu chỉ còn khoảng 2,72%. Tuy vậy, vấn đề quan trọng là cần xử lý những khoản nợ xấu còn lại, mà đó lại là những khoản nợ xấu khó xử lý hơn nhiều so với những khoản đã được xử lý trước đây. Mặt khác, cần kiểm soát tốt dư nợ tín dụng cho vay để không làm tăng thêm quy mô nợ xấu trong bối cảnh tổng tín dụng cho nền kinh tế đã tăng trên 19% trong năm 2015. Đồng thời, quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đã được thắt chặt hơn theo chuẩn mực quốc tế.
Để xử lý dứt điểm nợ xấu, NHNN nói riêng, Chính phủ nói chung đã nỗ lực sử dụng hệ thống các công cụ đã được hình thành trong hơn 2 năm qua, đặc biệt là hoạt động mạnh mẽ và hiệu quả của VAMC với gần 250.000 tỷ đồng nợ xấu đã mua, nhằm vượt qua thách thức khi quy mô nợ xấu đã được VAMC xử lý chỉ mới chiếm hơn 7% tổng số nợ xấu đã mua.
Bên cạnh việc tăng tiềm lực tài chính cho VAMC thì trọng tâm giai đoạn 2016 - 2020 là tạo dựng và vận hành thị trường mua bán nợ thứ cấp với trung tâm là VAMC, đi đôi với hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường mua bán, xử lý nợ, tài sản bảo đảm, xác định rõ trách nhiệm của người đi vay và quyền hạn của chủ nợ, qua đó khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia mua bán nợ xấu.
Quá trình xử lý nợ xấu không thể tách rời tiến trình cơ cấu lại hệ thống các NHTM nên ngoài việc tăng cường thanh tra, giám sát hệ thống các TCTD, nhất là việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, thì cần kiên quyết xử lý vấn đề sở hữu chéo và cho vay doanh nghiệp “sân sau” của các TCTD.
Để xử lý vấn đề sở hữu chéo, ngay từ năm 2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động và đến năm 2014 lại ban hành Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD. Đặc biệt, Thông tư 06/2015/TT-NHNN ban hành năm 2015 quy định rõ thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp đối với trường hợp sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định tại Điều 55, Luật Các TCTD. Tuy nhiên, vấn đề sở hữu chéo vẫn chưa được giải quyết triệt để nên cần xử lý dứt điểm trong giai đoạn 2016 - 2020.
Hệ thống ngân hàng cũng cần được thúc đẩy việc công khai, minh bạch thông tin và phát triển công nghệ. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro và năng lực tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Cơ cấu lại hoạt động ngân hàng theo hướng an toàn, hiệu quả, giảm thiểu các hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, tiến tới sớm áp dụng tiêu chuẩn quản trị rủi ro Basel III.
Hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng cần nâng cao vai trò và trình độ, quyền hạn và trách nhiệm, tương xứng với trọng trách là công cụ quan trọng và hữu hiệu đảm bảo sự ổn định, an toàn và bền vững của cả hệ thống ngân hàng. Trong đó, phương pháp thanh tra, giám sát cần chuyển từ thanh tra, giám sát tuân thủ là chủ yếu sang thanh tra, giám sát theo mô hình quốc tế (CAMELS) để có thể giám sát từ vốn, thanh khoản, chất lượng tài sản có, quản trị, lợi nhuận, mức độ rủi ro…
Mặc dù Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD theo Quyết định số 254/2012/QĐ-TTg đã cơ bản hoàn thành, song hệ thống các TCTD Việt Nam vẫn cần tiếp tục được củng cố để đảm bảo đầy đủ năng lực cạnh tranh của toàn bộ hệ thống cũng như của từng TCTD không chỉ trên thị trường tài chính tín dụng trong nước, mà còn cạnh tranh trong bối cảnh mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế.