Trọng tài thương mại, sự ưu việt bị nghi ngờ

(ĐTCK) Trong giao dịch kinh doanh, thương mại, nguy cơ tranh chấp tiềm ẩn là một thuộc tính không thay đổi. Không nhận thức được hoặc nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề này là nguyên nhân dẫn đến nhiều xung đột phát sinh giữa các DN.

Rồi đến khi mâu thuẫn không giải quyết được, họ đưa nhau ra Tòa án và thực tế đã trả lời, DN dù thắng kiện cũng phải chịu những thiệt hại không nhỏ khi đáo tụng đình. Căn bệnh pháp lý này đã khiến cho nhiều DN thức tỉnh và lựa chọn biện pháp phòng bệnh theo xu hướng tìm đến những dịch vụ tư vấn pháp lý uy tín để hạn chế tranh chấp phát sinh.

 

Trọng tài thương mại, mới mà cũ

Trọng tài thương mại ở Việt Nam là cơ quan tài phán được thành lập từ rất lâu, nhưng khái niệm trọng tài thương mại vẫn còn khá xa lạ trong nhận  thức của nhiều người.

Cơ chế giải quyết các tranh chấp thương mại thông qua trọng tài được xác lập từ lâu tại Việt Nam , dù theo quy định của pháp luật mỗi thời kỳ, cách thức tổ chức và hoạt động của tổ chức trọng tài là khác nhau. Vào năm 1963, Chính phủ đã ban hành Điều lệ tổ chức Hội đồng Trọng tài ngoại thương, bên cạnh Phòng Thương mại, với thẩm quyền giải quyết các tranh chấp ngoại thương giữa tổ chức kinh tế trong nước và tổ chức kinh tế nước ngoài. Hệ thống trọng tài kinh tế được thành lập từ TW đến cấp huyện (theo Pháp lệnh Trọng tài kinh tế năm 1990), với chức năng vừa giải quyết tranh chấp về hợp đồng kinh tế, vừa quản lý nhà nước về chế độ hợp đồng kinh tế.

Năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/CP, cho phép thành lập tổ chức Trọng tài kinh tế với tư cách là một tổ chức xã hội -  nghề nghiệp dưới hình thức Trung tâm Trọng tài thương mại, tách biệt hẳn với Trọng tài kinh tế nhà nước. Đây là một bước ngoặt khi Nhà nước đã trả trọng tài thương mại về đúng bản chất và chức năng của nó.

Để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đưa hệ thống pháp luật Việt Nam tiệm cận với pháp luật quốc tế, nâng cao tính minh bạch, chuyên nghiệp cho hoạt động của các trung tâm trọng tài thương mại, Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 được ban hành cho đến khi được thay thế bằng Luật Trọng tài thương mại 2010, đang có giá trị áp dụng cho đến hiện nay.

Phán quyết của trọng tài thương mại và bản án, quyết định của tòa án có giá trị thực thi như nhau

Như vậy, có thể thấy, qua gần nửa thế kỷ hình thành, hoạt động của trọng tài thương mại đã được định hình và hoàn thiện ở Việt Nam . Thế nhưng, DN Việt Nam vẫn chưa có được sự hiểu biết tường tận và đánh giá đúng về tầm quan trọng của trọng tài thương mại.

 

Trọng tài và toàn án: bằng và hơn

Theo số liệu thống kê vào năm 2007 của Trung tâm Trọng tài quốc tế  (VIAC), trong khi mỗi thẩm phán ở Toà kinh tế TP. Hà Nội phải xử trên 30 vụ một năm, ở Toà kinh tế TP. HCM xử 50 vụ một năm, thì mỗi trọng tài viên của VIAC chỉ xử 0,25 vụ một năm. VIAC là trung tâm trọng tài tên tuổi uy tín nhất ở Việt Nam, vậy mà, có lẽ đến nay, số liệu trên vẫn chỉ đang tăng lên với tốc độ của đà chạy khởi động.

Con số này liệu có phản ánh sự chênh lệch trong chất lượng phán xét của hệ thống Tòa kinh tế so với Trọng tài thương mại? Câu trả lời là không. Nhiều DN được VIAC tư vấn về các điều khoản trọng tài có nhiều ý kiến khác nhau giải thích về vấn đề này, nhưng hoàn toàn không liên quan đến đánh giá về chất lượng phán xét.

Có DN cho rằng, tòa án gắn với Nhà nước, còn trọng tài thương mại là tổ chức ngoài Nhà nước. Yếu tố gắn với Nhà nước là gắn với quyền lực vượt trội mà đã quyền lực hơn thì có lẽ là tốt hơn. Có DN phàn nàn về phí trọng tài cao hơn so với án phí.

Có DN hiểu biết hơn một chút về hoạt động của trọng tài thương mại thì cho rằng, trọng tài thương mại quyết định một lần là xong. Điều này gây rủi ro cho DN, trong khi tòa án có nhiều cấp xét xử như sơ thẩm, rồi phúc thẩm, có khi cả giám đốc thẩm. 

Thực tế, trong hoạt động tư vấn giao dịch cho các DN, chúng tôi thường khuyên khách hàng cân nhắc giữa sự bằng và sự hơn để lựa chọn cơ chế trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh. Bởi vì, trọng tài thương mại và tòa án là bằng nhau xét về giá trị pháp lý để thi hành. Bởi phán quyết của trọng tài thương mại và bản án, quyết định của tòa án có giá trị thực thi như nhau và đều được bảo đảm thi hành bằng pháp luật về thi hành án dân sự.

Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã đưa ra rất nhiều cơ chế bảo đảm cho trọng tài có quyền ra phán quyết, quyết định, thậm chí cả quyền quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời như tòa án để đảm bảo giải quyết tranh chấp (khoản 2, Điều 8, Luật Trọng tài thương mại 2010).

Tuy nhiên, cần xét dưới góc độ kinh doanh của DN để đánh giá việc lựa chọn, thì những điểm ưu việt của mình khiến cho trọng tài thương mại đạt được phần hơn.

Trong kinh doanh, nhiều khi thời gian là yếu tố được quy ra tiền bạc. Ưu thế về tốc độ giải quyết tranh chấp, rút ngắn sự lãng phí thời gian công sức theo đuổi kiện tụng cho DN không thuộc về tòa án. Với đặc điểm của cơ chế tố tụng hiện nay, một vụ việc tranh chấp kinh doanh thương mại nếu trải qua đủ các trình tự, thủ tục pháp lý sơ thẩm, phúc thẩm, thì về mặt quy định thời hạn giải quyết tại tòa án có thể từ 7 - 12 tháng, nhưng trên thực tế, có thể mất 1 - 3 năm. Trong khi đó, nếu cộng tất cả các thời hạn theo các trình tự, thủ tục liên quan, thì thời hạn giải quyết một vụ tranh chấp của trọng tài thương mại chỉ mất khoảng hơn 120 ngày và giữa quy định với thực tế không khác xa là bao.

Với những DN đã từng trải qua một chu trình xét xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm, có khi lại giám đốc thẩm hủy án để xét xử sơ thẩm lại từ đầu, mới thấu hiểu đến giá trị của việc phán quyết chung thẩm, một lần nhanh gọn và có hiệu lực áp dụng ngay của trọng tài thương mại. Những chi phí gia tăng suốt quá trình mệt mỏi theo kiện khiến cho lợi thế về án phí so với phí trọng tài giờ trở thành vô nghĩa.

Một ưu thế vượt trội của trọng tài thương mại là ở đội ngũ trọng tài viên. Muốn thu hút được sự tin tưởng từ các DN, các trung tâm trọng tài thương mại phải lựa chọn chặt chẽ đội ngũ trọng tài viên của mình. Trên thực tế, họ đều là những chuyên gia của nhiều lĩnh vực khác nhau, có kiến thức và dày dạn về kinh nghiệm về những vụ việc mà họ tham gia giải quyết trong tư cách trọng tài viên. Điều này khiến cho trong quá trình giải quyết vụ việc, giữa trọng tài viên và các DN đã có sẵn tiền đề tốt cho việc phân giải là sự cùng am hiểu về những khái niệm kinh doanh, về những vấn đề kinh tế… Trong khi đó, rất nhiều DN đã chật vật giải thích những ý kiến kinh doanh của mình khi tham gia tranh tụng tại tòa án, vì sự hạn chế trong tiếp cận các thông tin, kiến thức kinh doanh của nhiều thẩm phán. Đây rõ ràng là ưu điểm của trọng tài thương mại mà các DN có thể nhìn nhận được.

Xét về tổng thể, sự hoạt động hiệu quả của trọng tài thương mại không chỉ dừng lại ở ý nghĩa của một cơ quan tài phán. Hoạt động của trọng tài thương mại là cơ sở phát triển và cập nhật cho DN những kiến thức lấp đầy những khuyết tật trong kinh doanh và rõ ràng đây là một “bệnh viện” pháp lý tốt cho những căn bệnh tranh chấp pháp lý phát sinh của DN trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.

Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc Điều hành Công ty Luật Ngân hàng Chứng khoán Đầu tư
Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc Điều hành Công ty Luật Ngân hàng Chứng khoán Đầu tư

Tin cùng chuyên mục