Triển vọng các kênh dẫn vốn năm 2026

(ĐTCK) Kinh tế Việt Nam đã có bước chạy đà mạnh mẽ trong năm 2025 với triển vọng tăng trưởng 8%. Trước mục tiêu tăng trưởng 10% giai đoạn 2026-2030, khu vực kinh tế tư nhân đang dần vươn lên trở thành động lực chính của nền kinh tế, đóng góp 55-60% GDP và 65% tổng vốn đầu tư xã hội, nên cần hơn bao giờ hết cơ hội tiếp cận các nguồn vốn dài hạn, đa dạng và chi phí thấp.

Tín dụng - kênh dẫn vốn then chốt: Chi phí tăng dần

Tín dụng ngân hàng hiện là kênh dẫn vốn chủ chốt của nền kinh tế cũng như doanh nghiệp, với tỷ lệ hơn 130% so với quy mô GDP. Tính đến cuối tháng 11/2025, dư nợ tín dụng đạt xấp xỉ 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,6% so với đầu năm, tương ứng với khoảng 2,6 triệu tỷ đồng đã được đẩy vào nền kinh tế.

Tăng trưởng tín dụng dự kiến đạt mức 19-20% cho cả năm 2025, điều này cũng phù hợp khi nền kinh tế tăng trưởng xấp xỉ 8%, đẩy nhu cầu vốn tăng mạnh. Đây là mức tăng trưởng tín dụng cao nhất từ năm 2010 đến nay, với động lực mạnh mẽ tiếp tục đến từ cho vay doanh nghiệp, trong khi cho vay cá nhân có tốc độ tăng trưởng thấp hơn.

Mặc dù kinh tế duy trì tăng trưởng cao, song các nỗ lực trong công tác điều hành chính sách tiền tệ đã góp phần kiểm soát tốt lạm phát ở mức chung là 3,3% (mục tiêu Quốc hội đề ra là 4,5-5%), tỷ giá liên ngân hàng tăng xấp xỉ 4% tính đến cuối tháng 11/2025.

Môi trường vĩ mô ổn định tạo dư địa cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục điều hành chính sách linh hoạt trong năm 2026, do đó tín dụng dự báo giữ đà tăng quanh mức 20% để hỗ trợ cho mục tiêu tăng trưởng GDP 10%.

Trong bối cảnh thị trường bất động sản đang phục hồi tích cực, nhiều dự án được khơi thông pháp lý, nguồn cung dồi dào, cho vay bất động sản cũng sẽ là một trong những động lực chính cho tăng trưởng tín dụng.

Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu NHNN xây dựng lộ trình bỏ hạn mức tín dụng hàng năm từ năm 2026. Bước đi này được kỳ vọng sẽ giải phóng dòng vốn, giúp các ngân hàng chủ động kinh doanh và cạnh tranh bằng giá cả và chất lượng dịch vụ, thay vì phụ thuộc vào hạn mức tín dụng như trước đây.

Tuy vậy, lãi suất sẽ khó giảm trong năm 2026. Cầu tín dụng tăng mạnh thời điểm cuối năm 2025 khiến lãi suất qua đêm liên ngân hàng liên tục đi lên từ tháng 10 cho đến tháng 11, có lúc tăng lên 7,5%/năm vào những ngày đầu tháng 12 - mức cao nhất trong 3 năm qua.

Đà tăng cũng lan sang thị trường 1 (khu vực tổ chức và dân cư), nhiều ngân hàng vừa và nhỏ đã điều chỉnh lãi suất huy động từ tháng 10, thậm chí điều chỉnh nhiều lần trong 2 tháng gần đây.

Các ngân hàng quốc doanh cũng đã bắt đầu nâng lãi suất ở các kỳ hạn ngắn. Đến cuối tháng 11, trung bình lãi suất kỳ hạn 3 tháng của nhóm ngân hàng này tăng 13 điểm cơ bản so với cuối tháng 10 lên 2,03%/năm, trong khi tại nhóm ngân hàng tư nhân tăng 28 điểm cơ bản lên 4,2%/năm.

Ở kỳ hạn dài, trung bình lãi suất kỳ hạn 12 tháng của nhóm ngân hàng tư nhân tính đến cuối tháng 11 tăng 27 điểm cơ bản so với đầu năm lên 5,32%/năm, trong khi nhóm ngân hàng quốc doanh giữ ổn định ở mức 4,7%/năm. Như vậy, trung bình lãi suất kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng tăng 14 điểm cơ bản so với đầu năm lên 5%/năm vào cuối tháng 11.

Mặc dù lãi suất tăng hiện nay do yếu tố mùa vụ cuối năm, song khả năng giảm trong năm 2026 về mặt bằng của năm 2025 là rất khó, nhất là trong bối cảnh tăng trưởng huy động thấp hơn nhiều so với cầu tín dụng. Chi phí vay tăng cũng là yếu tố tác động lớn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy cao như bất động sản, hạ tầng, năng lượng…

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp nhiều hứa hẹn

Trước nhiều biến động, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) Việt Nam năm 2025 vẫn giữ nhịp ổn định, tăng trưởng cả về giá trị và số lượng doanh nghiệp phát hành, đóng góp quan trọng vào huy động vốn trung và dài hạn.

Trong 10 tháng đầu năm 2025, tổng lượng TPDN phát hành đạt 500.000 tỷ đồng, tăng gần 46,5% so với cùng kỳ 2024; tỷ lệ dư nợ TPDN trên GDP ước khoảng 10%.

Hai nhóm ngành ngân hàng và bất động sản tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tổng giá trị TPDN phát hành của nhóm ngân hàng đạt 346.000 tỷ đồng, tăng 43% so với cùng kỳ và chiếm tỷ trọng 69%.

Sự ấm lên của thị trường địa ốc đã thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển bất động sản tìm đến kênh TPDN, tổng giá trị huy động đạt 111.000 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với cùng kỳ.

Bà Trần Thị Khánh Hiền

Giám đốc Khối Nghiên cứu, Công ty cổ phần Chứng khoán MB (MBS)

Các doanh nghiệp bất động sản phát hành giá trị lớn nhất có thể kể đến là Vingroup (24.000 tỷ đồng), Vinhomes (15.000 tỷ đồng), Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển bất động sản Trường Minh (10.000 tỷ đồng)…, chủ yếu là trái phiếu kỳ hạn 3 năm, lãi suất bình quân gia quyền là 10,2%/năm. Về phát hành quốc tế, năm 2025 ghi nhận 2 đợt phát hành với tổng giá trị 350 triệu USD, kỳ hạn bình quân 4,71 năm, lãi suất 5,86%/năm.

Khung pháp lý được hoàn thiện, đồng thời công tác quản lý, giám sát và cảnh báo rủi ro được chú trọng là những yếu tố then chốt giúp lấy lại niềm tin thị trường sau giai đoạn biến cố 2022-2023.

Ngày 8/12/2025, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã tổ chức hội thảo đóng góp ý kiến cho dự thảo Nghị định quy định về chào bán, giao dịch TPDN riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán TPDN ra thị trường quốc tế.

Đây cũng là một phần của Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030, đặt mục tiêu đưa quy mô dư nợ TPDN đạt tối thiểu 25% GDP và phát triển theo hướng an toàn, có chiều sâu, phù hợp thông lệ quốc tế, thúc đẩy áp dụng xếp hạng tín nhiệm và tiêu chuẩn ESG.

Dự thảo được xây dựng để bảo đảm tính thống nhất với các luật mới (Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Chứng khoán 2019), cũng như tháo gỡ một số khó khăn mà tổ chức phát hành đang đối mặt hiện nay.

Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể đổi phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán khi số người sở hữu hơn 65% trái phiếu cùng loại chấp thuận. Điều này góp phần giúp doanh nghiệp linh hoạt tối ưu dòng tiền, bảo đảm lợi ích của cổ đông, nhà đầu tư và duy trì hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Bên cạnh đó, dự thảo cũng đề xuất yêu cầu tách bạch nguồn vốn huy động từ trái phiếu để theo dõi riêng và doanh nghiệp cần giải trình phương án sử dụng phần vốn tạm thời chưa dùng đến.

Nhìn chung, năm 2026 hứa hẹn sẽ là một năm tích cực đối với thị trường TPDN. Các tổ chức phát hành kỳ vọng sẽ mở rộng hơn với sự xuất hiện của doanh nghiệp ngành nghề khác, bên cạnh ngân hàng và bất động sản, trở thành một trong những kênh dẫn vốn chủ lực của nền kinh tế.

Thị trường chứng khoán chờ đón làn sóng IPO và M&A

Tính đến ngày 5/12/2025, chỉ số VN-Index tăng 37% kể từ đầu năm, đưa Việt Nam nằm trong số các thị trường chứng khoán (TTCK) tăng tích cực nhất thế giới.

Tổng vốn hóa toàn thị trường (cả 3 sàn chứng khoán) đạt xấp xỉ 366 tỷ USD, tương đương 77% quy mô GDP 2024. Trong tháng 10, TTCK Việt Nam đã được FTSE xếp loại thị trường mới nổi sơ cấp, đánh dấu một chặng đường chuyển mình, khẳng định vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng cho doanh nghiệp.

Cụ thể trong 11 tháng qua, các doanh nghiệp niêm yết đã huy động được xấp xỉ 130.000 tỷ đồng vốn cổ phần mới trên TTCK thông qua các hình thức chào bán riêng lẻ, chào bán cho cổ đông hiện hữu và IPO (chào bán ra công chúng lần đầu).

Kết quả này cao hơn cả năm 2021 (khoảng 127.000 tỷ đồng). Đáng chú ý, năm 2025 đánh dấu sự trở lại của các thương vụ IPO lớn như Vinpearl (mã chứng khoán VPL) quay trở lại niêm yết với quy mô vốn hóa xấp xỉ 185.000 tỷ đồng (tương đương 7 tỷ USD); 3 công ty chứng khoán TCBS, VPS và VPBankS đã huy động thành công hơn 1,3 tỷ USD sau khi chào bán lần đầu và các công ty này đều niêm yết trong năm 2025.

Năm 2026 dự báo sẽ chào đón làn sóng IPO mạnh mẽ khi thị trường đã đủ năng lực hấp thụ, giá trị giao dịch trung bình phiên hiện đạt xấp xỉ 1 tỷ USD, số lượng tài khoản đạt 11,5 triệu.

Nhiều doanh nghiệp đã tự tin lên kế hoạch IPO trong thời gian tới như Bách Hóa Xanh, Momo, Long Châu, Pharmacity, Galaxy, Nông nghiệp Hòa Phát, AgriS… Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đang thúc đẩy mạnh mẽ việc đưa các doanh nghiệp FDI quy mô lớn, hoạt động hiệu quả lên niêm yết.

Một số doanh nghiệp như CP Việt Nam, Olympia Lighting… đã bày tỏ sự quan tâm tới việc đưa cổ phiếu lên giao dịch trên TTCK trong chiến lược phát triển và gắn bó lâu dài tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, TTCK sôi động cũng tạo điều kiện cho các thương vụ M&A thành công, hỗ trợ các doanh nghiệp cơ cấu lại tài sản, huy động thêm nguồn vốn để mở rộng sản xuất - kinh doanh. Chẳng hạn, VNPT dự kiến bán đấu giá 188 triệu cổ phiếu MSB giá trị ước khoảng 3.400 tỷ đồng; HDBank dự tính bán toàn bộ 1% cổ phiếu VJC để thu về 1.200 tỷ đồng…

Trong mối tương quan 2 chiều, sự đa dạng của các doanh nghiệp niêm yết, các thương vụ IPO lớn, các deal bán vốn đáng chú ý… sẽ thu hút sự tham gia của dòng vốn trong nước và cả nước ngoài. Ngược lại, doanh nghiệp càng nâng cao chuẩn mực quản trị, tăng cường minh bạch thông tin sẽ càng dễ dàng trong việc huy động vốn từ TTCK.

Ngoài 3 kênh dẫn vốn trên, sự ra đời của Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trong năm 2025 mang đến kỳ vọng về một bước chuyển rõ rệt, đặc biệt trong việc khơi thông dòng vốn cho doanh nghiệp.

Nghị quyết 68 không dừng ở định hướng chung, mà còn đưa ra hàng loạt giải pháp cụ thể để đa dạng hóa nguồn vốn cho doanh nghiệp tư nhân như khuyến khích mô hình đồng tài trợ giữa các quỹ trung ương, địa phương, tư nhân và các tổ chức tài chính, tín dụng, cùng với ban hành khung pháp lý thử nghiệm cho vay ngang hàng, gọi vốn cộng đồng.

Đây là cơ sở để mở rộng thêm lựa chọn vốn phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Trần Thị Khánh Hiền
Giám đốc Khối Nghiên cứu, Công ty cổ phần Chứng khoán MB (MBS)

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục