Triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa: Nhiều nút thắt cần sớm gỡ!

(ĐTCK) Đó là chia sẻ của TS. Nguyễn Trí Hiếu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển thị trường tài chính và bất động sản toàn cầu với Báo Đầu tư Chứng khoán. Hồng Dung thực hiện.
TS. Nguyễn Trí Hiếu.

Theo ông, nguyên nhân nào đưa đến việc Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam?

Chính phủ phải ban hành Nghị quyết 05/2025/NQ-CP, trước hết vì quy mô giao dịch tài sản mã hóa của người Việt ở nước ngoài đã lên tới 200-300 tỷ USD. Khi Việt Nam chưa công nhận tài sản mã hóa, người dân vẫn mạnh mẽ đầu tư vào các sàn quốc tế, khiến hoạt động này tiếp tục mở rộng ngoài tầm kiểm soát và kéo theo nhiều hệ lụy.

Thứ nhất là thất thoát ngoại tệ, vì mọi giao dịch tài sản mã hóa trên các sàn giao dịch quốc tế đều phải sử dụng ngoại tệ; đồng Việt Nam không được chấp nhận trên các sàn toàn cầu.

Thứ hai là rủi ro lừa đảo, rửa tiền và các hành vi phạm pháp khác ngày càng gia tăng khi người dân tham gia thị trường trong môi trường thiếu khung pháp lý bảo vệ.

Thứ ba, đây là xu thế toàn cầu không thể đảo ngược. Nhiều quốc gia, từ Mỹ, châu Âu (EU) đến Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc)… đều đã công nhận và quản lý tài sản số. Việt Nam không thể đứng ngoài.

Vì vậy, Nghị quyết 05 ra đời là lựa chọn tất yếu để công nhận tài sản mã hóa, hình thành nền tảng pháp lý cho một thị trường mới, tiềm năng nhưng không ít rủi ro. Đáng chú ý, Nghị quyết cũng thiết lập chương trình sandbox 5 năm, cho phép thử nghiệm có kiểm soát. Với bước đi thận trọng này, Việt Nam có thể từng bước tham gia thị trường tài sản mã hóa một cách an toàn.

Tôi cho rằng, Nghị quyết 05 có thể xem là một bước đột phá. Trước đây, Việt Nam chỉ dừng ở các quy định rất cơ bản: Không công nhận tiền kỹ thuật số là phương tiện thanh toán hợp pháp và cấm sử dụng trong giao dịch kinh tế.

Tuy nhiên, những quy định đó không thể ngăn dòng vốn của người dân đổ mạnh vào thị trường tiền ảo trên các nền tảng quốc tế. Sự xuất hiện của Nghị quyết 05 tạo ra bước chuyển lớn về mặt pháp lý, lần đầu tiên đặt nền móng cho việc công nhận và quản lý tài sản mã hóa. Qua đó, mở ra một thị trường mới - nơi người dân có thể tham gia hợp pháp, được bảo vệ tốt hơn và giảm thiểu rủi ro.

Những cơ hội và thách thức trong việc áp dụng Nghị quyết 05 là gì, thưa ông?

Nghị quyết 05 mở ra nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức trong triển khai thực tế.

Về cơ hội, Nghị quyết lần đầu xác lập khái niệm tài sản được mã hóa và tài sản số, trong đó tài sản số phải được hình thành từ một tài sản cơ sở là tài sản thực (trừ tiền pháp định và chứng khoán). Điều này tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành thị trường tài sản mã hóa, từ quy định về phát hành, vận hành sàn giao dịch… đến sự tham gia của nhà đầu tư.

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất nằm ở chính tài sản cơ sở. Nghị quyết mới đưa ra định nghĩa, nhưng chưa có quy định cụ thể về những vấn đề then chốt như: Tài sản thực sẽ do ai thẩm định, định giá và lưu ký? Cơ chế duy trì, quản lý tài sản cơ sở sau khi phát hành tài sản số ra sao? Tỷ lệ tương quan giữa giá trị tài sản cơ sở và tài sản số (1:1, 2:1 hay tỷ lệ khác)? Xử lý thế nào nếu tài sản cơ sở bị hư hại hoặc mất giá, như trường hợp bất động sản gặp thiên tai?...

Trong lĩnh vực ngân hàng, tài sản bảo đảm cho khoản vay luôn có tỷ lệ khống chế rõ ràng, chẳng hạn tỷ lệ LTV (Loan to value) cho bất động sản là 80%, có nghĩa là ngân hàng chỉ cho vay 80% trên giá trị của tài sản bảo đảm.

Hơn nữa, bất cứ khi nào giá trị tài sản bảo đảm biến động thì ngân hàng đều đánh giá lại để đảm bảo món vay không vượt quá tỷ lệ LTV. Song, Nghị quyết 05 lại chưa đưa ra những chuẩn mực tương tự cho tài sản cơ sở của tài sản số.

Khoảng trống này sẽ trở nên phức tạp hơn khi tài sản số được giao dịch trên thị trường thứ cấp, giá thị trường của tài sản số biến động theo cung cầu, nhưng mối liên hệ giữa giá thị trường và giá trị tài sản thực lại chưa được xác lập.

Do đó, cơ hội mở ra thị trường mới là rất lớn, nhưng đi kèm là khoảng trống về quản lý rủi ro cho nhà đầu tư nếu không có hướng dẫn chi tiết về quan hệ giữa tài sản thực - tài sản được mã hóa - tài sản số. Đây là vấn đề cần sớm được bổ sung để bảo vệ nhà đầu tư và đảm bảo thị trường vận hành an toàn.

Tài sản được mã hóa là cơ sở cho tài sản số, điều này được hiểu như thế nào? Theo ông, những loại tài sản nào có thể được mã hóa?

“Tài sản được mã hóa là cơ sở cho tài sản số” nghĩa là mỗi tài sản số được phát hành phải dựa trên một tài sản thực có giá trị tương ứng. Ví dụ, nếu nhà phát hành tạo ra một đồng tài sản số - giả sử “ViệtCoin” - thì đồng ViệtCoin đó chỉ có ý nghĩa khi được bảo chứng bởi một tài sản thực như bất động sản hoặc một tài sản hữu hình/vô hình đã được thẩm định và lưu ký.

Nghị quyết 05 ra đời là lựa chọn tất yếu để công nhận tài sản mã hóa

Giá trị của tài sản số vì vậy phải gắn chặt với giá trị của tài sản cơ sở, bảo đảm số lượng tài sản số phát hành không vượt quá giá trị thật mà nhà phát hành đang nắm giữ. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, Nghị quyết 05 hiện chưa quy định cụ thể về cơ chế xác lập tỷ lệ này, cũng như cách quản lý giá trị của tài sản số sau khi được đưa vào giao dịch trên thị trường.

Cốt lõi của khái niệm này là: Tài sản số chỉ là “phiên bản số hóa”, còn giá trị thực phải đến từ tài sản được mã hóa đứng phía sau. Đây chính là nền tảng để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư.

Hầu hết các tài sản vật chất có giá trị kinh tế, ngoại trừ tiền pháp định và chứng khoán - đều có thể được mã hóa. Đây có thể là bất động sản hoặc bất kỳ tài sản hữu hình hay vô hình nào đủ điều kiện làm tài sản cơ sở.

Điểm khác biệt giữa phát hành tài sản mã hóa và phát hành chứng khoán nằm ở phạm vi tài sản làm nền tảng. Với chứng khoán, doanh nghiệp phải dùng toàn bộ thực thể doanh nghiệp làm cơ sở phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, kèm theo yêu cầu về báo cáo tài chính và nhiều tiêu chí tuân thủ khác.

Dĩ nhiên, có những loại trái phiếu doanh nghiệp được đảm bảo bằng một loại tài sản nào đó của doanh nghiệp, chẳng hạn bất động sản, nhưng cuối cùng thì doanh nghiệp là nhà phát hành trái phiếu vẫn phải chịu trách nhiệm thanh toán nợ trái phiếu.

Với tài sản mã hóa thì cho đến nay, khi chưa có hướng dẫn cụ thể cho Nghị quyết 05, chúng ta có thể hiểu là tài sản thực bảo đảm giá trị của tài sản số, chứ không phải nhà phát hành tài sản số.

Chính vì thế, theo Nghị quyết 05, nhà phát hành tài sản mã hóa chỉ cần một tài sản thực riêng lẻ - có thể là một phần tài sản của doanh nghiệp hoặc một tài sản độc lập - để làm nền tảng phát hành. Nhờ vậy, việc mã hóa tài sản linh hoạt hơn nhiều so với cơ chế phát hành chứng khoán truyền thống.

Ông đề cập đến tương quan giữa giá trị tài sản thực và tài sản số được mã hóa, vậy nên được xác lập theo tỷ lệ nào?

Theo tôi, tỷ lệ hợp lý nhất cho lần phát hành đầu tiên là 1:1. Chẳng hạn, một tài sản thực trị giá 100 tỷ đồng thì doanh nghiệp phát hành 100 đơn vị tài sản số với giá trị niêm yết 1 tỷ đồng cho một đơn vị tài sản số tương ứng.

Tuy nhiên, sau khi phát hành và tài sản số được đưa lên thị trường giao dịch thứ cấp, tỷ lệ này có thể thay đổi do giá tài sản số sẽ biến động theo cung - cầu thị trường.

Đây chính là điểm khó bởi: Giá trị tài sản thực mang tính ổn định, nhất là bất động sản hoặc tài sản đưa vào kinh doanh; giá tài sản số có thể biến thiên mạnh, dẫn đến việc duy trì một tỷ lệ cố định giữa 2 loại tài sản trở nên rất phức tạp.

Việc xác lập một tỷ lệ tương quan chuẩn cho giai đoạn giao dịch thứ cấp là vấn đề mà các cơ quan quản lý, đặc biệt là Bộ Tài chính, cần tiếp tục nghiên cứu để có quy định phù hợp.

Vấn đề được thị trường quan tâm đó là cơ quan nào sẽ thẩm định và xác nhận giá trị của tài sản được mã hóa?

Nghị quyết 05 chưa quy định cơ quan nào sẽ thẩm định và xác nhận giá trị của tài sản được mã hóa. Đây là điểm còn bỏ ngỏ. Tuy nhiên, có thể suy luận rằng, Bộ Tài chính sẽ chỉ định những tổ chức đủ năng lực - chủ yếu là các công ty kiểm toán và thẩm định giá độc lập đã được Bộ phê chuẩn.

Hiện Bộ Tài chính đã có danh sách các công ty kiểm toán được phép tham gia thị trường chứng khoán, nên nhiều khả năng chính các đơn vị này cũng sẽ được xem xét giao nhiệm vụ thẩm định giá trị tài sản mã hóa.

Mỗi tổ chức thẩm định sẽ phải xây dựng quy trình thẩm định riêng và chịu trách nhiệm pháp lý về kết quả của mình, bởi quyết định đầu tư của nhà đầu tư phụ thuộc đáng kể vào báo cáo thẩm định đó.

Nếu đơn vị thẩm định không tuân thủ quy trình, gây sai lệch hoặc sai sót, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước nhà đầu tư. Do vậy, cần sớm có quy định rõ ràng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của các tổ chức kiểm toán - thẩm định tham gia định giá tài sản được mã hóa.

Đặt giả thiết, trong trường hợp nhà phát hành tài sản số phá sản, tài sản của nhà đầu tư sẽ được xử lý ra sao? Ông có thể chia sẻ gợi ý hoặc kinh nghiệm quốc tế liên quan đến vấn đề này?

Đây là một vấn đề rất lớn, cần sự vào cuộc của Bộ Tư pháp để có giải pháp cụ thể. Theo quy định hiện hành, tài sản số dựa trên tài sản thực (ví dụ một phần của doanh nghiệp) chưa có hướng dẫn rõ ràng khi doanh nghiệp phá sản.

Thông thường, khi mở thủ tục phá sản tất cả tài sản của doanh nghiệp sẽ bị đưa vào thủ tục phá sản và được xử lý theo quyết định của tòa án. Trong trường hợp này, tài sản cơ sở cho tài sản số phải chăng cũng sẽ bị xem là một phần tài sản phá sản, khiến các nhà đầu tư rất hoang mang.

Điều này xuất phát từ việc các nhà đầu tư tài sản mã hóa vốn không phải là chủ nợ hay cổ đông chính thức, nhưng tài sản họ nắm giữ lại bị xử lý như tài sản của doanh nghiệp.

Do đó, tôi đề nghị cần có quy định riêng để tách các tài sản đã mã hóa ra khỏi tài sản doanh nghiệp khi đi vào phá sản nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư tài sản mã hóa và đảm bảo tài sản của họ luôn được bảo vệ.

Thời điểm hiện tại chưa có hướng dẫn cụ thể, vậy các nhà phát hành tài sản số tiềm năng chuẩn bị tham gia vào thị trường tài sản mã hóa nên chuẩn bị tâm thế như thế nào?

Tính đến thời điểm này, chúng ta chưa có sàn giao dịch nào được cấp phép, cũng chưa có nhà phát hành tài sản số nào được Bộ Tài chính phê duyệt.

Vì vậy, các nhà phát hành tiềm năng cần chuẩn bị theo 2 hướng: Thứ nhất, theo dõi sát các hướng dẫn từ Bộ Tài chính liên quan đến Nghị quyết 05; thứ hai, tham khảo ý kiến của các chuyên gia pháp lý và chuyên gia thị trường chứng khoán để xây dựng những bước chuẩn bị, lập chương trình hành động khả thi.

Hiện tại, chưa nhà phát hành nào được phép công khai phát hành tài sản mã hóa, nếu tự ý làm sẽ là trái luật. Cá nhân tôi từng hỗ trợ một doanh nghiệp bất động sản lên kế hoạch phát hành tài sản số trong tương lai, nhưng tôi luôn khuyến cáo là phải cẩn trọng và chờ quy định rõ ràng từ Bộ Tài chính trước khi đưa ra một chương trình huy động vốn cụ thể qua việc phát hành tài sản số.

Tóm lại, các nhà phát hành tiềm năng nên chuẩn bị thông tin, tham khảo ý kiến chuyên gia và lập kế hoạch, để khi Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn chi tiết là có thể triển khai ngay chương trình hành động của mình.

Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, đối chiếu với Nghị quyết 05, “tài sản thực” là các tài sản vật chất hoặc tài sản có giá trị kinh tế thực, trừ chứng khoán và tiền pháp định. Nhóm này bao gồm bất động sản, tài sản nghiên cứu, tác phẩm nghệ thuật và mọi loại tài sản hữu hình hoặc vô hình nhưng có giá trị kinh tế rõ ràng.

“Tài sản mã hóa” là tài sản được số hóa dựa trên chính tài sản thực nói trên, thông qua công nghệ blockchain hoặc các kỹ thuật số tương đương. Việc mã hóa biến tài sản thực thành dạng dữ liệu có thể ghi nhận, theo dõi và lưu trữ trên nền tảng số gọi là “blockchain”.

“Tài sản số” là sản phẩm cuối cùng hình thành từ quá trình mã hóa. Đây là loại tài sản mà nhà phát hành đưa ra thị trường tài sản mã hóa để giao dịch, mua bán hoặc phân phối cho nhà đầu tư.a

Hồng Dung

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục