Kết thúc tuần giao dịch, VN-Index giảm 110,17 điểm (-9,44%), xuống 1.056,61 điểm. Giá trị giao dịch trên HOSE giảm 2,3% xuống 85.065 tỷ đồng, khối lượng giảm 5,2% xuống 3.848 triệu cổ phiếu.
Chỉ số HNX-Index giảm 25,91 điểm (-10,79%), xuống 214,21 điểm. Giá trị giao dịch trên HNX giảm 9,9% xuống 11.461 tỷ đồng, khối lượng giảm 8,2% xuống 825 triệu cổ phiếu.
Trong tuần, nhóm cổ phiếu nguyên vật liệu giảm mạnh nhất HPG (-10,3%), HSG (-11,9%), VIS (-7,58%), NKG (-6,34%), TLH (-7,1%), POM (-10,71%), DPM (-14,3%), DCM (-10,8%) ...
Tiếp theo là nhóm dầu khí với PLX (-9,8%), PVD (-16,9%), GAS (-11,89%), PVS (-16,6%), PVB (-21,6%), OIL (-18,6%), BSR (-19,3%) ...
Nhóm trụ cột thị trường là ngân hàng cũng chịu áp lực bán mạnh và giảm sâu với VCB (-9,7%), CTG (-18,9%), BID (-11,8%), VPB (-17,8%), MBB (-8,4%), HDB (-14,56%), ACB (-6,5%), EIB (-17,8%), STB (-15,29%), TPB (-9,93%), LPB (-11,85%), SHB (-16,1%) …
Trên sàn HOSE, cổ phiếu tăng điểm mạnh ngược dòng thị trường đáng kể nhất là RIC, ghi nhận tuần thứ 3 liên tiếp là mã tăng cao nhất HOSE, trung bình gần 40%/tuần. Tổng cộng mã này đã có chuỗi 15 phiên tăng kịch trần liên tiếp gần nhất.
Tuy nhiên, thanh khoản của RIC trồi sụt thất thường, khi có phiên chỉ có hơn 1.000 đơn vị khớp lệnh, có phiên vọt lên hơn 120.000 đơn vị.
Ngoài ra là VGC, mặc dù trong tuần chịu áp lực bán mạnh tại hai phiên 26/1 và 28/1, nhưng nhờ 3 phiên còn lại đều tăng trần đã hỗ trợ mạnh cổ phiếu này.
Các cổ phiếu như NAV, SJS, TNT, TGG, SZC cũng là những điểm sáng giao dịch với thanh khoản tương đối cao trong phiên.
Top 10 cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất trên sàn HOSE tuần từ 22/1 đến 29/1:
Mã |
Giá ngày 22/1 |
Giá ngày 29/1 |
Biến động tăng (%) |
Mã |
Giá ngày 22/1 |
Giá ngày 29/1 |
Biến động giảm (%) |
RIC |
9.37 |
13 |
38,74% |
FIT |
20.25 |
14.2 |
-29,88% |
PTC |
8.41 |
11 |
30,80% |
DLG |
2.14 |
1.58 |
-26,17% |
NAV |
17.3 |
22.05 |
27,46% |
SBT |
23.85 |
18 |
-24,53% |
SJS |
28 |
34.1 |
21,79% |
TVB |
14.9 |
11.3 |
-24,16% |
SGT |
14.05 |
17.1 |
21,71% |
GVR |
32.1 |
24.4 |
-23,99% |
LBM |
43.5 |
50.3 |
15,63% |
SJF |
3 |
2.3 |
-23,33% |
TNT |
2.8 |
3.15 |
12,50% |
TTF |
6.43 |
4.94 |
-23,17% |
TGG |
1.87 |
2.1 |
12,30% |
VRC |
12.15 |
9.39 |
-22,72% |
VGC |
30.75 |
34.2 |
11,22% |
PLP |
11.9 |
9.3 |
-21,85% |
SZC |
38.95 |
42 |
7,83% |
TSC |
4.26 |
3.33 |
-21,83% |
Ở chiều ngược lại, cổ phiếu FIT bị bán tháo với 6 phiên gần nhất đều giảm sàn và tắc thanh khoản khi luôn trong tình trạng dư bán sàn khối lượng lớn trong phiên.
Cổ phiếu FIT đã có khoảng thời gian nhảy vọt, từ cuối tháng 11 năm ngoái từ mức chỉ loanh quanh 8.000 đồng đã lên mức đỉnh lịch sử trong phiên ngày 21/1 vừa qua tại 21.750 đồng.
Nghi vấn thổi giá, cộng với giá trị cổ phiếu đã vượt quá xa 'thực tế' đã khiến cổ phiếu FIT lao dốc nhanh sau đó. Tại thời điểm đạt đỉnh ngày 21/1, thị giá cổ phiếu FIT cao hơn tới 78% giá trị sổ sách và tương đương mức định giá theo P/E lên tới 51 lần.
Cổ phiếu công ty con của FIT là TSC cũng chịu liên đới, với 10 phiên gần nhất thì có tới 7 phiên đóng cửa giảm, trong đó có 5 phiên giảm sàn.
Trong số các mã giảm khác, đáng kể là bluechip SBT, khi giá cổ phiếu đã không ngừng “rơi tự do” sau giai đoạn tăng liên tục từ cuối tháng 10/2020.
Trên sàn HNX, nhóm cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất đa số là các cổ phiếu vừa và nhỏ, trong đó, thanh khoản nổi bật có nhóm cổ phiếu công ty chứng khoán VIG, WSS, PSI.
Trong khi TDT sau khi đã được kéo lên mức đỉnh lịch sử kể từ khi chào sàn ở mức gần 26.000 đồng vào ngày 12/1 đã bị bán tháo ồ ạt, và có tới 10 phiên giảm sàn sau đó.
Top 10 cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất trên sàn HNX tuần từ 22/1 đến 29/1:
Mã |
Giá ngày 22/1 |
Giá ngày 29/1 |
Biến động tăng (%) |
Mã |
Giá ngày 22/1 |
Giá ngày 29/1 |
Biến động giảm (%) |
HTP |
14.6 |
20 |
36,99% |
TDT |
15.4 |
9.3 |
-39,61% |
VE4 |
13.7 |
17.8 |
29,93% |
ART |
7.7 |
4.7 |
-38,96% |
VE8 |
6.6 |
8.4 |
27,27% |
VIG |
6 |
3.7 |
-38,33% |
PGT |
3.8 |
4.8 |
26,32% |
WSS |
7.2 |
4.5 |
-37,50% |
INC |
10.4 |
13 |
25,00% |
CAG |
27.2 |
18 |
-33,82% |
L35 |
6 |
7.4 |
23,33% |
LUT |
7.6 |
5.1 |
-32,89% |
HCT |
14.5 |
17.7 |
22,07% |
C92 |
6 |
4.1 |
-31,67% |
SD4 |
3.7 |
4.5 |
21,62% |
PSI |
8.8 |
6.1 |
-30,68% |
MED |
35 |
42.2 |
20,57% |
DST |
4 |
2.8 |
-30,00% |
SPI |
2.8 |
3.2 |
14,29% |
VHE |
6 |
4.3 |
-28,33% |
Trên UpCoM, phần lớn giao dịch thưa thớt ở nhóm các mã tăng, giảm mạnh nhất, trừ VHG, SBS, CDO và PVV, nhưng cả bốn mã này đều giảm sâu.
Trong tuần, UpCoM chào đón tân binh CFM của CTCP Đầu tư CMF với giá tham chiếu 10.000 đồng/cổ phiếu vào phiên đầu tiên 25/1 đã có 3 phiên tăng trần với khối lượng thấp và 2 phiên đứng giá do không có giao dịch. Cổ phiếu tăng lên 18.500 đồng, tương đương +85%.
Top 10 cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất trên UpCoM tuần từ 22/1 đến 29/1:
Mã |
Giá ngày 22/1 |
Giá ngày 29/1 |
Biến động tăng (%) |
Mã |
Giá ngày 22/1 |
Giá ngày 29/1 |
Biến động giảm (%) |
HNE |
10.5 |
16.9 |
60,95% |
HES |
21.8 |
11.9 |
-45,41% |
NDC |
42 |
63.8 |
51,90% |
VHG |
2.8 |
1.6 |
-42,86% |
HIZ |
35.6 |
54 |
51,69% |
SRB |
2 |
1.2 |
-40,00% |
SHC |
6 |
8.8 |
46,67% |
HC1 |
23.8 |
14.3 |
-39,92% |
DUS |
10 |
14 |
40,00% |
SBS |
8.7 |
5.4 |
-37,93% |
DPD |
9.7 |
13.5 |
39,18% |
AIC |
19 |
12.1 |
-36,32% |
CH5 |
6.7 |
9.3 |
38,81% |
HAC |
9.2 |
6 |
-34,78% |
SPH |
17 |
23.2 |
36,47% |
PDT |
10.7 |
7 |
-34,58% |
BUD |
8 |
10.8 |
35,00% |
CDO |
2.2 |
1.5 |
-31,82% |
STV |
11.1 |
14.7 |
32,43% |
PVV |
2.2 |
1.5 |
-31,82% |