
Một lượng vốn lớn sẽ được bơm ra nền kinh tế
Theo số liệu công bố mới nhất của NHNN, trong giai đoạn đầu năm 2025, đánh giá theo quy luật mùa vụ đầu năm và thời điểm Tết Nguyên đán, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã có những dấu hiệu khởi sắc hơn so với cùng kỳ. Đến ngày 18/2/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 15,62 triệu tỷ đồng, tăng 0,02% so với tháng 12/2024, tăng 16,35% so với cùng kỳ, trong khi cùng kỳ 2024 lại giảm 1,01% so với tháng 12/2023.
Tuy nhiên, con số công bố trước đó, tính đến 3/2/2025 (tức trước đó 15 ngày), dư nợ tín dụng toàn hệ thống còn ở mức cao hơn đạt 15,65 triệu tỷ đồng, tăng 0,19% so với cuối năm 2024. Tăng trưởng tín dụng nói riêng, chính sách điều hành tiền tệ nói chung được xem là một trong những động lực lớn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt trên 8% trong năm 2025.
Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, mục tiêu năm 2025 NHNN đặt ra là phải làm sao để vừa đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền nhưng phải hỗ trợ tích cực đối với tăng trưởng của nền kinh tế và đảm bảo các cân đối lớn.
Cụ thể, NHNN phải đảm bảo được thanh khoản cho nền kinh tế, thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, đảm bảo nguồn vốn cho nền kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh huy động vốn nhàn rỗi cho nền kinh tế từ các doanh nghiệp, người dân, có chính sách lãi suất hợp lý, thu hút được vốn huy động. Trong trường hợp cần vốn đầu tư để đáp ứng được nhu cầu, NHNN sẽ sử dụng công cụ điều hành của mình trong việc cung ứng vốn, tái cấp vốn, có hình thức cấp vốn một cách phù hợp thông qua các nghiệp vụ điều hành thị trường.
Về điều hành hạn mức tín dụng, Phó Thống đốc cho biết, mục tiêu đặt ra là tăng trưởng 16% nhưng cũng có thể cao hơn trong điều kiện vẫn kiểm soát được lạm phát và các chỉ tiêu vĩ mô khác để làm sao đạt mục tiêu tăng trưởng. Đặc biệt, trong năm 2025, phương thức quản lý và điều hành hạn mức tín dụng đã được đổi mới trong năm 2024 sẽ vẫn được áp dụng và tiếp tục điều chỉnh để tạo sự thuận lợi cho các ngân hàng.
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức thấp là 8%, hướng đến 10% trở lên, ông Tú cho rằng, trong bối cảnh diễn biến tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, góc độ ngành ngân hàng thì đây là là nhiệm vụ nặng nề. Nếu Chính phủ đạt tăng trưởng kinh tế là 10% thì tín dụng tăng 20% tương ứng với hơn 3-3,2 triệu tỷ đồng bơm ra nền kinh tế. Theo ông Tú, hiện chỉ số hệ số an toàn được hầu hết các ngân hàng thương mại sử dụng tối đa. Ngân hàng huy động 10 đồng thì được cho vay 9 đồng, còn 1 đồng phải đảm bảo an toàn. Nhưng nhiều ngân hàng cho vay cả trên 10 đồng rồi, tức là ngân hàng phải sử dụng cả vốn tự có, cả vốn điều lệ của các ngân hàng, cả vốn tái cấp vốn của NHNN hỗ trợ để cho vay nhiều hơn cả vốn huy động. Cụ thể, với tổng vốn huy động của hệ thống ngân hàng là 15,2 triệu tỷ đồng hiện nay, nhưng cho vay 15,8 triệu tỷ đồng.
Cũng theo Phó thống đốc Tú, tổng dư nợ tín dụng gần 16 triệu tỷ đồng, trong khi GDP đạt 12 triệu tỷ đồng. Như vậy, tín dụng bằng 130% GDP. Nên với tăng trưởng kinh tế trong năm nay từ 8% trở lên thì tỷ lệ này sẽ cao hơn. Đây là bài toán vĩ mô rất khó, nhưng ngành ngân hàng không thể không làm.
Nhiều năm qua, với quan điểm điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, ngành ngân hàng rất quyết liệt, có nhiều cải cách. Ngành ngân hàng vẫn đóng vai trò là “bà đỡ” cho nền kinh tế trong vấn đề cung ứng vốn, nhất là khi thị trường vốn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa phát triển mong muốn. Về nguyên lý cơ bản muốn tăng trưởng phải mở rộng đầu tư, muốn mở rộng đầu tư thì trước hết phải có nhiều nguồn lực, trong đó phải có tiền. Song thực tế, vốn bằng tiền thì nhiều năm qua chủ yếu dựa vào tín dụng ngân hàng. Trong khi đó, vốn ngân hàng là vốn bổ sung cho vốn lưu động, vốn ngắn hạn. Các ngân hàng huy động vốn ngắn hạn, nhưng phải cho vay trung dài hạn, thay cho thị trường vốn.
Tín dụng ngân hàng đang tiến đến điểm ngưỡng tiếp tục gia tăng
PGS.TS Trần Hùng Sơn, Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển công nghệ ngân hàng (Trường Đại học Kinh tế-Luật) cho rằng, trong hơn 2 thập kỷ vừa qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đi cùng với sự tăng trưởng của tín dụng ngân hàng, bao gồm của tín dụng cho khu vực tư nhân.
Tốc độ tăng trưởng bình quân của tín dụng trong 10 năm gần đây là hơn 14% (cao hơn 2,4 lần tăng trưởng GDP). Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam (hơn 136% trong năm 2024) cao hơn các nước Asean-5 và các nước có cùng mức độ phát triển. Còn nghiên cứu của BIS (2024) ở các nền kinh tế mới nổi tại Châu Á cho thấy, nếu quy mô tín dụng/GDP vượt ngưỡng 130% thì tín dụng sẽ kìm hãm tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam trong 20 năm qua đạt mức cao nhất khi tỷ lệ tín dụng/GDP đạt gần mức 100% và có xu hướng suy giảm khi tỷ lệ tín dụng/GDP vượt qua ngưỡng này.
Nghiên cứu của BIS (2024) ở các nền kinh tế mới nổi tại Châu Á cho thấy, nếu quy mô tín dụng/GDP vượt ngưỡng 130% thì tín dụng sẽ kìm hãm tăng trưởng.
PGS.TS Sơn cũng cho rằng, trong thực tế quy mô tín dụng ngân hàng đang tiến đến điểm ngưỡng tiếp tục gia tăng, có thể tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế. Chưa kể thị trường vốn phát triển thấp, làm hạn chế nguồn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp vẫn phụ thuộc vào tài trợ nội bộ cho đầu tư, cần cải thiện tiếp cận tài chính cho doanh nghiệp vừa, nhỏ. Theo ông Sơn, tiếp cận tài chính hiện không hoàn toàn là ràng buộc chặt đối với tăng trưởng. Nhưng rất có khả năng là ràng buộc trọng yếu khi nền kinh tế vào pha tăng trưởng cao.
"Chính sách tín dụng trong giai đoạn tới cần hướng vào các ngành dịch vụ có tính chất đổi mới sáng tạo toàn cầu như: công nghệ thông tin - truyền thông, hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đầu vào cho lĩnh vực chế biến, tăng năng suất của ngành và của nền kinh tế”, ông Sơn nhấn mạnh.
Đồng thời, để tăng hiệu quả của tín dụng trong ngắn hạn, ông Sơn cho rằng, cần cải thiện tiếp cận vốn của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thông qua việc thành lập, phát triển các trung tâm cung cấp thông tin tín nhiệm với các ứng dụng công nghệ số mới. Phát triển các nền tảng cho vay số, nhanh chóng ban hành Sandbox đối với công nghệ tài chính. Còn trong dài hạn, phát triển hệ thống tài chính dựa trên thị trường (thị trường nợ và cổ phiếu) để tạo động lực tài chính mới cho tăng trưởng.
TS. Trần Hoàng Ngân, Đại biểu Quốc hội cũng cho rằng, mục tiêu GDP tăng 8% trở lên được đánh giá là rất thách thức. Song việc đạt tốc độ tăng trưởng cao là điều kiện để Việt Nam trở thành quốc gia có mức thu nhập cao vào 2045 như mục tiêu đã đặt ra. Năm nay, NHNN đưa ra định hướng tăng trưởng tín dụng là 16% và ước tính có hơn 2,5 triệu tỷ đồng được bơm vào nền kinh tế.
Theo ông Ngân, chính sách tiền tệ linh hoạt theo mục tiêu tăng trưởng, lạm phát. Điều hành lãi suất theo lạm phát cơ bản đảm bảo chất lượng tín dụng không để khối u nợ xấu quay trở lại. Cung tiền và tăng trưởng tín dụng có kiểm soát, không để tăng quá cao như giai đoạn 2000-2010 (dư nợ tăng bình quân 30%/năm, kinh tế tăng trưởng 7,3%), cùng với nhập siêu, tỷ giá… lạm phát tăng cao (23% năm 2008, 18,6% năm 2011) dễ gây bất ổn kinh tế vĩ mô.