Tiếp tục góp ý cho dự luật về kinh doanh bảo hiểm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại Luật Kinh doanh bảo hiểm do Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo dự kiến được Quốc hội xem xét thông qua ngay tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV kết thúc vào ngày 11/12/2025 tiếp tục nhận được ý kiến góp ý từ thị trường.
Là ngành kinh doanh có đặc thù riêng nên quan điểm xuyên suốt đối với các doanh nghiệp bảo hiểm là đầu tư an toàn. Là ngành kinh doanh có đặc thù riêng nên quan điểm xuyên suốt đối với các doanh nghiệp bảo hiểm là đầu tư an toàn.

Kiến nghị gỡ bỏ hạn chế đầu tư vào trái phiếu cơ cấu nợ

Điểm e, Khoản 2, Điều 99 - Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành (năm 2022) quy định doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài “Không được mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong đó có mục đích để cơ cấu lại các khoản nợ của chính doanh nghiệp phát hành…”.

Theo ông Nguyễn Anh Tuấn - Phó chủ tịch Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, quy định này nhằm đảm bảo an toàn vốn cho công ty bảo hiểm, ngăn dòng vốn bảo hiểm bị sử dụng để xoay vòng nợ, không tạo giá trị gia tăng.

Đồng thời, đảm bảo quyền lợi người tham gia bảo hiểm và góp phần ổn định hệ thống tài chính, nhưng khi áp dụng trong thực tiễn lại bộc lộ một số hạn chế, dẫn tới nguy cơ thiếu hụt nguồn lực cho các dự án chiến lược, trong khi cơ cấu nợ là nhu cầu tất yếu của các dự án dài hạn.

“Chính phủ đang ưu tiên đầu tư nhiều dự án hạ tầng then chốt như đường cao tốc Bắc - Nam, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam… với thời gian đầu tư kéo dài 15-30 năm. Việc các doanh nghiệp bảo hiểm vốn là các định chế nắm giữ nguồn vốn dài hạn ổn định nhất, nhưng lại bị giới hạn đầu tư vào trái phiếu cơ cấu nợ sẽ tác động không nhỏ tới chiến lược phát triển hạ tầng quốc gia, dẫn đến thiếu hụt nguồn lực cho các dự án chiến lược”, ông Tuấn nói.

Tổng CTCP Tái bảo hiểm quốc gia - Vinare cho biết, tại Việt Nam, phát hành trái phiếu để cơ cấu lại nợ là hoạt động phổ biến, đặc biệt trong các ngành có chu kỳ đầu tư dài hạn như bất động sản, năng lượng, hạ tầng giao thông. Hầu hết dự án quy mô lớn cần 7-10 năm để hoàn thành, trong khi kỳ hạn trái phiếu phát hành thường phổ biến kỳ hạn 2-5 năm.

Việc cơ cấu lại nguồn vốn ngắn hạn thành vốn dài hạn giúp doanh nghiệp duy trì tiến độ và bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của dự án.

Một số công ty bảo hiểm khác cũng cho hay, khâu đánh giá rủi ro trái phiếu cần toàn diện, không chỉ dựa vào mục đích phát hành.

Trái phiếu doanh nghiệp được thẩm định dựa trên nhiều tiêu chí: Sức khỏe tài chính của tổ chức phát hành, giá trị và tính pháp lý của tài sản bảo đảm, cùng các điều khoản bảo vệ nhà đầu tư. Mục đích phát hành chỉ là một yếu tố trong quá trình đánh giá.

Do đó, cần gỡ bỏ hạn chế đầu tư vào trái phiếu “đảo nợ”, nới lỏng quy định để doanh nghiệp bảo hiểm được lựa chọn đầu tư vào trái phiếu cơ cấu nợ trong trường hợp đơn vị phát hành có xếp hạng tín nhiệm cao, phương án sử dụng vốn minh bạch.

Tất nhiên, số tiền bỏ ra để mua trái phiếu theo hình thức này không được vượt quá 35% vốn chủ sở hữu của công ty bảo hiểm, đồng thời áp dụng cơ chế quản trị rủi ro chặt chẽ và giám sát việc thực hiện các cam kết phát hành.

Để đảm bảo công tác kiểm soát, hồ sơ phát hành trái phiếu doanh nghiệp cần được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, do Bộ Tài chính quy định cụ thể về các trường hợp phê duyệt hồ sơ phát hành (chẳng hạn dựa trên tiêu chí doanh nghiệp phát hành có xếp hạng tín nhiệm cao theo chuẩn mực đánh giá của tổ chức xếp hạng tín nhiệm được Bộ Tài chính công nhận; có phương án sử dụng vốn minh bạch, có dòng tiền rõ ràng và khả năng thanh toán nợ được đánh giá khả thi; có hệ thống đánh giá rủi ro độc lập và cơ chế giám sát nội bộ chặt chẽ; cơ chế báo cáo cập nhật về dòng tiền và tình hình thanh toán nợ gốc, lãi trái phiếu…).

“Với năng lực phân tích và kinh nghiệm đầu tư, các doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn có thể kiểm soát và quản trị rủi ro khi đầu tư vào trái phiếu cơ cấu nợ”, ông Tuấn nhấn mạnh.

Bên cạnh đề xuất nới lỏng, cũng có ý kiến cho rằng, cần giữ nguyên quy định hiện hành. Công ty cổ phần Tập đoàn Bảo hiểm DBV cho rằng, không nên gỡ bỏ hạn chế đầu tư vào trái phiếu cơ cấu nợ bởi đây là hình thức đầu tư có rủi ro cao, không phù hợp tiêu chí an toàn của doanh nghiệp bảo hiểm.

Đề xuất điều chỉnh quy định cấm đầu tư trở lại cổ đông

Ngoài trái phiếu cơ cấu nợ, Vinare cũng đề xuất cần điều chỉnh, bổ sung các quy định liên quan đến việc đầu tư trở lại cổ đông và người có liên quan của cổ đông theo hướng chỉ hạn chế đối với cổ đông lớn của doanh nghiệp bảo hiểm (sở hữu từ 10% vốn điều lệ trở lên) nhằm đảm bảo tính thống nhất khả thi và phù hợp với đặc thù hoạt động đầu tư của ngành, đồng thời không hạn chế cơ hội lựa chọn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.

Sự điều chỉnh này không chỉ giúp doanh nghiệp bảo hiểm yên tâm đầu tư đúng luật, mà còn tăng cường tính minh bạch, giảm thiểu rủi ro, tạo môi trường pháp lý ổn định, tiệm cận thông lệ quốc tế, góp phần ổn định thị trường vốn và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững.

Theo quy định tại Điểm đ, Khoản 2, Điều 99 - Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022, doanh nghiệp bảo hiểm “không được đầu tư trở lại dưới mọi hình thức cho các cổ đông, thành viên góp vốn hoặc người có liên quan với cổ đông, thành viên góp vốn theo quy định của Luật Doanh nghiệp, trừ tiền gửi tại các cổ đông, thành viên là tổ chức tín dụng…”.

Vinare cho rằng, quy định này dễ gây rủi ro pháp lý khi doanh nghiệp bảo hiểm khó xác định cụ thể danh sách cổ đông của doanh nghiệp tại thời điểm đầu tư.

Cụ thể, đối với doanh nghiệp bảo hiểm là công ty chưa đại chúng thì quản lý danh sách cổ đông theo quy định tại Điều 122 - Luật Doanh nghiệp 2020, nên có thể chủ động kiểm soát được việc đầu tư trở lại cho cổ đông. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm là công ty đại chúng thì không dễ thực hiện.

Khoản 3, Điều 4 - Luật Doanh nghiệp 2020 quy định, bất kỳ cá nhân/tổ chức nào sở hữu tối thiểu 1 cổ phần của doanh nghiệp đều là cổ đông của doanh nghiệp đó. Danh sách cổ đông của doanh nghiệp đại chúng được Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) quản lý tập trung và thường xuyên biến động.

Doanh nghiệp chỉ có thể nắm bắt/biết được danh sách cổ đông tại một thời điểm “đã chốt” trong quá khứ thông qua nghiệp vụ của VSDC, mà không thể biết chính xác được danh sách cổ đông tại thời điểm đầu tư (trừ trường hợp cổ đông lớn khi thực hiện giao dịch mua/bán cổ phần phải xin phép/công bố thông tin theo quy định).

Như vậy, khi thực hiện các khoản đầu tư tài chính trong phạm vi được phép, doanh nghiệp bảo hiểm là công ty đại chúng có thể vô tình đầu tư trở lại cho chính cổ đông của mình mà không hề hay biết.

Cùng với đó là những khó khăn trong việc xác định người có liên quan của cổ đông tại thời điểm đầu tư. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm là công ty chưa đại chúng, người có liên quan của cổ đông được xác định theo Khoản 23, Điều 4 - Luật Doanh nghiệp 2020.

Tuy nhiên, rủi ro đầu tư trở lại người có liên quan của cổ đông xuất hiện khi việc khai báo các thông tin về người có liên quan của cổ đông có thể không được khai báo, cập nhật đầy đủ và chính xác.

Còn đối với doanh nghiệp bảo hiểm là công ty đại chúng, người có liên quan của cổ đông được xác định căn cứ theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán.

Việc xác định mối quan hệ người có liên quan theo quy định của Luật Doanh nghiệp chỉ áp dụng khi 1 trong 2 bên phải là doanh nghiệp, còn theo Luật Chứng khoán áp dụng giữa bất kỳ tổ chức, cá nhân nào mà không bắt buộc một bên phải là doanh nghiệp. Hiện tại, chưa có quy định pháp luật yêu cầu toàn bộ cổ đông phải cung cấp thông tin người có liên quan cho doanh nghiệp, dẫn tới việc có thể vô tình đầu tư vào người có liên quan của cổ đông.

Điểm đ, Điều 74 - Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 quy định doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài tại Việt Nam phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản trước khi chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp dẫn đến cổ đông, thành viên góp vốn sở hữu từ 10% vốn điều lệ trở lên hoặc giảm xuống dưới 10% vốn điều lệ.

Gắn với quy định quản lý cổ đông này, để bảo đảm tính thống nhất, khả thi và phù hợp với đặc thù của ngành bảo hiểm cũng như hạn chế bất cập trong quy định cấm đầu tư trở lại cho cổ đông, chỉ nên hạn chế đầu tư trở lại đối với cổ đông, thành viên góp vốn sở hữu từ 10% trở lên vốn điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm.

Tại phiên thảo luận sáng 18/11/2025 của Quốc hội về dự luật, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng đã giải trình và tiếp thu các vấn đề đại biểu quan tâm.

Theo Bộ trưởng, dự thảo lần này chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, cấp bách nhằm cắt giảm điều kiện kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nên đối với các nội dung khác Bộ Tài chính ghi nhận ý kiến đại biểu Quốc hội để rà soát, đưa vào phương án sửa đổi tổng thể Luật trong thời gian tới.

Kim Lan

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục