Lo ô tô khó cạnh tranh với các nước
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh vừa có báo cáo gửi Quốc hội về các vấn đề liên quan ngành Công Thương.
Trong đó, một nội dung quan trọng được đề cập là việc tiếp tục thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu trong quy hoạch phát triển ngành ô tô Việt Nam; xây dựng lộ trình thực hiện kể từ năm 2017 và các cơ chế khuyến khích sản xuất để bảo đảm tỷ lệ nội địa hóa trong công nghiệp ô tô.
Theo Bộ Công Thương, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong 2 năm trở lại đây. Năm 2015, lần đầu tiên sản lượng sản xuất, lắp ráp xe ô tô trong nước đạt trên 200 nghìn xe/năm, tốc độ tăng so với năm 2014 đạt 51%. Năm 2016, sản lượng tiếp tục tăng mạnh, đạt trên 283,3 nghìn xe/năm. Một số loại sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ...
Bộ Công Thương cho hay, tổng công suất lắp ráp thiết kế của ô tô Việt Nam vào khoảng 500 nghìn xe/năm, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 47%, doanh nghiệp trong nước chiếm khoảng 53%. Xe sản xuất, lắp ráp trong nước đáp ứng khoảng 70% nhu cầu xe trong nước, với tổng sản lượng của thị trường xe du lịch khoảng 210 nghìn xe/năm trong năm 2016, trong đó sản lượng ô tô con khoảng trên 160 nghìn chiếc.
Tuy nhiên, Bộ Công Thương thừa nhận, ngành vẫn chưa tạo được sự hợp tác - liên kết và chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp trong sản xuất - lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện; chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn do đó tỷ lệ nội địa hóa của một số dòng xe còn đạt thấp so với mục tiêu đề ra.
Về tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi, Bộ Công Thương thừa nhận sự thất bại. Mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%.
Các sản phẩm đã được nội địa hóa mang hàm lượng công nghệ rất thấp như: săm, lốp ô tô, ghế ngồi, gương, kính, bộ dây điện, ắc-quy, sản phẩm nhựa... Có tới 80-90% nguyên liệu chính cho sản xuất linh kiện như thép hợp kim, hợp kim nhôm, hạt nhựa, cao su kỹ thuật cao hiện phải nhập khẩu. Vật liệu làm khuôn mẫu chủ yếu cũng phải nhập khẩu.
“Hàng năm, các doanh nghiệp phải nhập khẩu khoảng 2-3,5 tỷ USD các linh kiện, phụ tùng phục vụ cho sản xuất lắp ráp và sửa chữa xe”, Bộ Công Thương cho biết.
“Hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa của các nước trong khu vực trung bình đã đạt được 65-70%, Thái Lan đạt tới 80%. Như vậy, nếu các nhà sản xuất ô tô trong nước không sớm có giải pháp hữu hiệu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, chắc chắn sẽ khó lòng cạnh tranh với thị trường khu vực”, Bộ Công Thương thừa nhận.
Tại những báo cáo trước đây, Bộ Công Thương thừa nhận giá ô tô đắt hơn nhiều nước. Nhưng lần này, Bộ không nhắc đến giá xe. Thực tế giá xe ô tô ở Việt Nam sau khi thuế nhập trong ASEAN về 0% từ đầu 2018 không những không rẻ mà còn có dấu hiệu đắt thêm so với năm ngoái.
Giá xe ô tô vẫn ngoài tầm với của đại đa số người dân Việt Nam.
Vẫn kêu gọi DN ngoại đầu tư dự án lớn
Nguyên nhân ngành ô tô chưa đạt như kỳ vọng, theo Bộ Công Thương, là do trước khi đầu tư dự án lắp ráp tại Việt Nam, các tập đoàn ô tô lớn của Nhật Bản, Hoa Kỳ... đều đã đầu tư các dự án sản xuất ô tô con có quy mô rất lớn trong khu vực ASEAN.
“Công suất các dự án sản xuất ô tô con thường được tính toán cho thị trường khu vực, chứ không tính riêng cho quốc gia đặt nhà máy sản xuất, vì vậy các tập đoàn không có dự án đầu tư quy mô lớn ở Việt Nam do quy mô thị trường quá nhỏ, bằng 1/10 Thái Lan, 1/5 Indonesia”, Bộ Công Thương giải thích.
Định hướng cho giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035, Bộ này cho hay sẽ tập trung vào phát triển các sản phẩm xe con phù hợp với người Việt Nam và xu hướng phát triển xe con của thế giới (xe thân thiện môi trường: eco car, hybrid, xe điện,... ).
Mục tiêu đến năm 2020-2025, xe sản xuất trong nước đáp ứng 60-70% nhu cầu thị trường và nội địa hóa đến 2020 đạt từ 35-40%, đến năm 2021-2025 đạt 40-45%.
Định hướng ô tô thời gian tới, Bộ Công Thương muốn tận dụng cơ hội thị trường do các chính sách vừa ban hành, tập trung hỗ trợ để thúc đẩy nhanh dự án của Công ty cổ phần ô tô Trường Hải (Thaco), Công ty cổ phần Tập đoàn Thành Công, Tập đoàn Vingroup ( VinFast ) và các dự án khác. Đây là những tín hiệu tốt cho việc gia tăng sản lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước trong thời gian tới.
Đồng thời, Bộ Công Thương cũng muốn có thêm nhiều chính sách đặc thù cho ngành ô tô. Chẳng hạn nghiên cứu, trình Quốc hội ban hành sửa đổi áp dụng mức thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe có tỷ lệ nội địa hóa cao (không đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với phần giá trị tạo ra trong nước, góp phần giảm giá thành xe sản xuất trong nước); Xây dựng thí điểm chuỗi cung ứng ngành ô tô cho các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô trong và ngoài nước.
Về dài hạn, Bộ Công Thương vẫn muốn có cơ chế chính sách thu hút đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia đầu tư các dự án có quy mô lớn tại Việt Nam, đặc biệt tập trung vào các thương hiệu và dòng xe chưa có tại khu vực ASEAN, nhằm tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước tham gia sâu nhất vào chuỗi sản xuất ô tô đa quốc gia.